Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên là những nội dung nổi bật nhất trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Với lối văn duy cảm, Thạch Lam đã len lỏi vào tâm hồn nhân vật và miêu tả chân thực những cảm nhận của người trong cuộc. Những bài văn mẫu sau đây sẽ giúp các bạn hình dung rõ hơn những điều này.
Những truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam luôn nổi bật với văn phong lãng mạn, giọng văn đầy chất thơ và Hai đứa trẻ là những áng văn lãng đãng như vậy. Cùng tìm hiểu bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật liên trong truyện này.
Tổng hợp những bài văn mẫu phân tích bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên qua ngòi bút Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
I. Dàn Ý Văn Mẫu Phân Tích Bức Tranh Phố Huyện Và Tâm Trạng Nhân Vật Liên
1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về Thạch Lam: nổi tiếng với văn phong lãng mạn, giọng văn đầy chất thơ nhưng không ủy mị, thảm sầu như những nhà văn lãng mạn cùng thời.
– Giới thiệu chung về truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
2. Thân bài:
a. Bức tranh phố huyện tăm tối quẩn quanh và tâm trạng của Liên
* Cảnh ngày tàn:
– Âm thanh: tiếng trống thu không nhỏ dần từ xa vọng lại, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve.
– Màu sắc:
+ “chân trời phương tây đỏ rực như lửa cháy và những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”
+ “màu đen của dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời”
⇒ Âm thanh và màu sắc gợi nỗi buồn thấm thía, cảm giác tàn lụi.
– Không gian: hẹp như bị chặn lại.
– Từng bước chân thời gian chầm chậm bước tới chiều rồi tối.
⇒ Qua ngòi bút của Thạch Lam buổi chiều như buồn hơn, ngày tàn đến nhanh hơn, phố huyện phơi bày vẻ tiêu điều xác sơ, mòn mỏi.
– Tâm trạng của Liên:
Tâm hồn cô bé nhạy cảm, tinh tế, xao xuyến một nỗi buồn man mác: “Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
* Cảnh chợ tàn
– Hình ảnh chợ huyện lúc vãn: “trên nền chợ đầy rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.
– Những đứa trẻ nghèo nhặt rác, chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được…..
– Tâm trạng Liên: động lòng thương cảm.
* Những con người nơi phố huyện
– Mẹ con chị Tí:
+ Ngày ngày mò cua bắt ốc, đêm đến lại lầm lũi dọn hàng nước.
+ Khách hàng toàn là những người dưới đáy xã hội.
+ Dẫu chả kiếm được bao nhiêu nhưng đêm nào mẹ con chị Tí cũng dọn hàng.
⇒ Mẹ con chị đang cầm cự trong sự sống.
– Chị em Liên với của hàng tạp hóa sơ sài…. chẳng đáng là bao.
– Bà cụ Thi là nhân vật điển hình cho số phận tàn tạ trong cái đêm đen của xã hội ấy.
⇒ Diễn biến tâm trạng Liên thể hiện một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và đồng cảm với những con người không tương lai, không hạnh phúc.
b. Tâm trạng của Liên trong đêm tối và trước những ngọn đèn
* Cảnh phố huyện về đêm
– Khung cảnh:
+ Bóng tối bao la phủ trùm tất cả, cả phố huyện chìm trong bóng tối.
+ Ánh sáng nhỏ bé yếu ớt chỉ là quầng, là khe, là vệt, là chấm và cuối cùng chỉ là hột sáng thưa thớt.
⇒ Có sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, hình ảnh ngọn đèn leo lét nơi quán hàng chị Tí là biểu tượng cho kiếp sống nhỏ nhoi lay lắt, mù tối của những người cùng khổ trong biển đêm mênh mông của cuộc đời. Ngọn đèn ấy tuy yếu ớt nhưng vẫn là niềm lạc quan sống của những kiếp người nhỏ bé vô danh, vô nghĩa không tương lai, hạnh phúc trong xã hội cũ.
– Sinh hoạt của con người:
+ Các nhà đóng cửa im lìm.
+ Gánh phở của bác Siêu so với mẹ con chị Tí có phần khấm khá hơn nhưng lại đứng trước nguy cơ đáng sợ hơn: thất nghiệp. Bởi ở vùng quê này thứ quà của bác Siêu là một thứ quà xa xỉ.
+ Vợ chồng bác Xẩm sống trong cảnh màn trời chiếu đất, trông chờ vào của bố thí ở nơi đây => sự trông chờ trong vô vọng.
+ Mẹ con chị Tí: hàng nước đơn sơ.
+ Chị em Liên: quán nhỏ.
⇒ Nghèo khổ, nhàm chán, tẻ nhạt, vô vị.
* Tâm trạng của Liên:
– Đêm tối với Liên quen lắm, chúng chẳng đáng sợ.
– Rồi Liên hoài tưởng về quá khứ tươi đẹp ở Hà Nội, nơi có một vùng sáng rực và lấp lánh.
– Như mọi người dân trong phố huyện Liên luôn mong chờ một cái gì đó mới mẻ, tươi sáng sẽ đến xua tan đi đêm đen âm u lụi tàn ở phố huyện.
⇒ Bằng trái tim đôn hậu, dịu dàng Thạch Lam đã phát hiện ra những rung động sâu xa, những khao khát thầm kín trong cuộc đời những con người tưởng như hoàn toàn an phận ấy.
c. Tâm trạng đón đợi tàu
* Tâm trạng chờ đợi:
– An dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn dặn chị tàu đến nhớ đánh thức em.
– Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm nhìn sao trời….
* Tâm trạng đón tàu:
– Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa nghe tiếng còi vọng lại Liên đã vội vã gọi em dậy.
– Rồi tàu đến Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua.
* Tâm trạng khi tàu đi qua:
– Ngẩn ngơ, nuối tiếc.
– An băn khoăn nghĩ ngợi: “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?” Còn Liên lặng theo mơ tưởng.
* Ý nghĩa của việc đợi tàu:
– Đợi tàu là nếp sống nhu cầu không thể thiếu của chị em Liên.
– Đợi tàu để được cháy lên khao khát đổi đời.
– Qua việc đợi tàu Thạch Lam thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc sống lay lắt bế tắc của những kiếp người nhỏ bé nhất là những đứa trẻ vừa nâng niu trân trọng khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời ở những con người ấy.
3. Kết bài
– Khái quát và mở rộng vấn đề
II. Văn Mẫu Phân Tích Bức Tranh Phố Huyện Và Tâm Trạng Nhân Vật Liên
Bài số 1
Bước vào những trang viết của Thạch Lam là ta bước vào một thế giới nghệ thuật riêng, một thế giới hiện thực đẫm chất thơ. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn bộc lộ rất rõ thế giới nghệ thuật riêng đó của Thạch Lam. Nhà văn đã bày tỏ tấm lòng sâu kín đầy trắc ẩn yêu thương của mình qua việc miêu tả bức tranh phố huyện và diễn biến tâm trạng nhân vật Liên.
Là một trong bảy thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ) nhưng Thạch Lam đã chọn cho mình một hướng đi riêng với một quan điểm nghệ thuật riêng. Theo ông: “Thiên chức của nhà văn là nâng đỡ cái tốt, cái đẹp để cho cuộc đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn” và “văn chương không thể thoát ly, lãng quên mà phải là một thứ vũ khí thanh cao góp phần cải tạo xã hội”.
Lúc bấy giờ, trên văn đàn, người ta đua nhau viết nhiều loại tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kì hoặc nhiều chuyện tình ái mùi mẫn của giới thượng lưu. Lối đi của Thạch Lam tưởng sẽ dẫn tới ngõ cụt, dẫn tới “mảnh đất chết” của nghệ thuật. Đó là một loại truyện không có cốt truyện. “Thạch Lam đến với văn chương như mang một sứ mệnh hòa giải, hòa giải giữa thơ và văn xuôi, giữa hiện thực và lảng mạn” (Chu Văn Sơn). Truyện của Thạch Lam chú trọng nhiều đến những biến thái tinh vi, mơ hồ trong đời sống tâm hồn (chứ không phải phân tích tâm lí sắc lạnh như Nam Cao), và cứ thế trôi theo dòng cảm xúc, tâm trạng khiến cho khi đọc người ta luôn có cảm giác xao xuyến rất lạ. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam chính là một bài thơ trữ tình xót thương mà cũng vô cùng ấm áp và thấm thìa. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan gọi truyện của Thạch Lam là truyện “tình cảm” và cho rằng Thạch Lam “rất tin ở chủ nghĩa duy cảm”. Ông đứng vào một phái riêng của tiểu thuyết.
Chính vì không chú trọng đến cốt truyện nên Thạch Lam cũng không đi vào những đề tài to tát; quy mô cuộc sống xã hội được phản ánh không rộng lớn, những vấn đề đặt ra không mang tính bức xúc như trong nhiều sáng tác của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… Chất liệu tạo nên cuộc sống trong tác phẩm được Thạch Lam chắt chiu từ những gì hết sức nhỏ bé thậm chí vụn vặt mà nếu vô tình sẽ rất dễ bỏ qua.
Cái tài của Thạch Lam là ở chỗ nhà văn đã vượt lên đề tài, chế ngự chất liệu, chiếm lĩnh phạm vi phản ánh bằng lăng kính chủ quan và phong cách nghệ thuật tài hoa tinh tế. Và cứ tự nhiên như không, Thạch Lam đã gieo vào lòng độc giả một thứ tình yêu ngọt ngào đối vói nhiều trang viết của mình bởi người ta luôn tìm thấy ở văn xuôi Thạch Lam một thứ mê hương kì lạ: dìu dịu mà lan tỏa, thoang thoảng mà ngây ngất, mơ hồ mà đầy ám ảnh. Thạch Lam “vừa sống vừa lắng nghe chung quanh cũng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến cả bên ngoài và bên trong mình rồi trang trọng đề nghị với mọi người cùng bàn về điều hơn lẽ thiệt, mặc dù cái điều hơn lẽ thiệt đưa ra có khi nhỏ như một sợi tóc” (Nguyễn Tuân).
Nếu nhìn bề ngoài, ta sẽ nhận thấy cách lựa chọn chất liệu của Thạch Lam gần với những nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo như Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài… Còn nếu đi sâu khám phá nhiều trang văn của Thạch Lam ta lại cảm thấy ông rất gần với các nhà văn lãng mạn như: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng bởi ông luôn kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Thạch Lam đã tạo ra một thứ chủ nghĩa tình cảm riêng không giống như Vích-to Huy-gô, người đứng đầu tao đàn lãng mạn Pháp, cũng không giỗng như Nhất Linh và Hoàng Đạo, hai người anh của mình – hai cây bút có thể coi là đứng đầu tao đàn lãng mạn Việt Nam. Thạch Lam đã lặng lẽ mang đến cho văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa” (Nguyễn Đức Quyền). “Một thứ hương Hoàng Lan thanh tao được chưng cất từ những nỗi đời” (Chu Văn Sơn).
Hai đứa trẻ là một trong số nhiều truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Câu chuyện kể về hai chị em (Liên và An), hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một gian hàng tạp hóa nơi phố huyện. Đêm chuyển dần về khuya, nhiều bóng người lù mù đi qua như những chấm sáng mờ nhạt: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, cụ Thi điên, gia đình bác Xẩm. Họ cùng với đêm tối phố huyện gieo vào lòng trẻ thơ những nỗi niềm thương xót. Hai chị em dù buồn ngủ “ríu cả mắt” vẫn cố thức để đợi chuyên tàu đêm đi qua. Đoàn tàu như một vệt sao băng lao lên chốc lát rồi tất cả chìm vào bóng tối mênh mang..
Truyện chỉ có vậy nhưng cho đến hôm nay, sức hấp dẫn của nó vẫn còn vẹn nguyên. Có một cái gì đó vừa quen thuộc gần gũi lại vừa lạ lùng khiến ta ngạc nhiên và xao xuyến mãi.
Sức hấp dẫn của Hai đứa trẻ trước hết ở không khí truyện. Bước vào thế giới nghệ thuật của Hai đứa trẻ, người đọc lại bị xâm chiếm hấp dẫn bởi bầu không khí rất đặc trưng của một miền quê nghèo trước một buổi chiều tà chuyển dần vào đêm tối và tối dần tới đêm khuya. Và một điều tưởng như thật nghịch lý là cái sinh khí của câu chuyện lại được dệt nên bởi bức tranh của một phố huyện đang mất dần sinh khí. Cuộc sống ở đó đang đuổi dần, lụi tàn dần gợi lên cảm giác mòn mỏi. Nó toát lên từ không gian đến thời gian, từ cảnh vật, đồ vật đến con người… Tất cả như âm thầm nói cùng ta rằng cái phố huyện này là một miền đời đang chìm dần vào quên lãng, một miền quê heo hút bị cuộc đời bỏ quên. Nhưng thật lạ qua tất cả những gì Thạch Lam miêu tả, có một cái gì ấm áp cứ thấm vào hồn ta bởi không khí buồn Thạch Lam tạo ra là không khí “buồn mà rất đẹp” (Vũ Ngọc Phan). “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật là man mác […]. Đọc Hai đứa trẻ thấy một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” (Nguyễn Tuân). Thạch Lam đã thổi hồn mình vào bức tranh phố huyện. Đây là thành công đầu tiên, thành công cuối cùng cũng là thành công đặc sắc nhất của truyện ngắn Thạch Lam.
Như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan tổng kết: “Mỗi một nhân vật của Thạch Lam đều phảng phất tâm hồn Thạch Lam”. Hai đứa trẻ thực chất là những trạng thái tâm hồn của nhân vật Liên được tắm trong một bầu không khí trầm buồn man mác mà nhà văn đã thổi hồn mình vào đó. Những biến thái tinh vi của một tâm trạng buồn vừa mơ hồ, vừa khắc khoải vừa hiện hữu vừa mong manh đã trở thành ám ảnh. Mở đầu mới chỉ là những xao động được gợi lên từ một buổi chiều tàn trước cảnh chợ tàn. Rồi theo màn đêm buông xuống, tâm hồn trẻ thơ có gì xao xác, u uất đến tội nghiệp để cuối cùng xốn sang lên đôi chút lúc đoàn tàu chạy qua. Dòng cuối của tác phẩm là giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” của nhân vật Liên, song đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm bâng khuâng. Chất thơ của Hai đứa trẻ đã được khơi lên từ những rung động tâm hồn như thế.
Bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ (và cả Nhà mẹ Lê và Gió lạnh đầu mùa) gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của Thạch Lam. Theo hồi kí về gia đình Nguyễn Trường, bà Nguyễn Thị Thế, chị ruột của Thạch Lam kể lại: “Tôi không ngờ em Sáu có trí nhớ dai đến thế, như chuyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới ngủ. Năm đó tôi mới lên chín, em tôi lên tám mà mẹ đã giao cho hai chị em tôi coi hàng”. Cả một thời thơ ấu của Thạch Lam đã gắn với phố huyện Cẩm Giàng, bên cạnh đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng lúc đó cha vừa mất ở sầm Nưa – Lào, mẹ con bồng bế nhau về quê ngoại). Cái không gian buồn tẻ, quạnh hiu của phố huyện như một ám ảnh để rồi sau này thường xuất hiện trong nhiều trang viết của Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhất là Thạch Lam. Thời gian như một chiếc bình lộc kì diệu, nó giữ lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Dựng lên nhân vật Liên, thực chất Thạch Lam đã đánh thức trong tâm khảm của cậu bé An hồi nào để trở về phố huyện, nơi “bóng tối u uất nhẫn nại của đời thôn quê lưới mái lá nát hay những đêm sâu trong huyện” (Thế Lữ).
Bức tranh phố huyện trong con mắt của hai đứa trẻ cũng đầy đủ màu, âm thanh, đường nét và sự phối hợp giữa cảnh và người. Tất cả đều đượm vẻ u buồn: một con đường vào làng, ra sông, một phố chợ, một ga xép, một lũy tre… Những đường nét đơn sơ, giản dị, mộc mạc. Gam màu chủ đạo của bức tranh phố huyện là màu xám đen của bóng tối hòa lẫn với những quầng sáng mờ nhạt nhỏ nhoi. Đúng hơn là có cả “màu đỏ rực như lửa cháy” của mặt trời sắp tàn và màu “hồng nhạt” của những đám mây nhưng cái màu sắc tưởng như rực rỡ kia chỉ tồn tại trong tích tắc để rồi “đen lại”, lụi tàn đi nhường chỗ cho bóng tối bao trùm, xâm chiếm.
Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” rồi “muỗi bắt đầu vo ve” nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy khó nhất là việc tạo không khí truyện, khi tạo được không khí rồi thì mạch truyện cứ như thế mà tuôn chảy. Với tiếng trống thu không thủng thẳng từng tiếng một “vang ra đê gọi buổi chiều”, Thạch Lam đã tạo được không khí truyện một cách tự nhiên và có lẽ cái tiếng trống từ thời thơ ấu ấy đã đánh thúc, gọi dậy ở Thạch Lam tất cả những bâng khuâng, mơ hồ, man mác về một phố huyện ngày nào. Tiếng trống thu không là âm thanh quen thuộc xuất hiện thường nhật, trở thành một mảnh linh hồn của buổi chiều phố huyện, tạo cho phố huyện cái vẻ bình lặng đến nao nao buồn. Đúng là “một chiều êm ả như ru”. Tiếng trống thu không đã kéo cả buổi chiều trong ánh tà dương lặng trầm và u uất thấm thìa vào tận tâm hồn. Đây là hoàn toàn không phải là tiếng trống thúc sưu thuế bức bách khiến cho không gian trở nên ngột ngạt đầy sợ hãi trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, càng không phải là tiếng trông hộ đê giục giã hồi đầu thế kỉ của Phạm Duy Tốn trong sống chết mặc bay. Thật buồn nhưng thật êm, thật đẹp. Chính cái vẻ đẹp êm dịu, đượm buồn của buổi chiều quê ấy đã tạo nên chất thơ trong truyện của Thạch Lam. Thạch Lam đã khẽ đưa những nét vẽ thiên nhiên đầy lãng mạn.
Trong bức tranh phố huyện, đêm tối xuất hiện như một nhân vật mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn chứ không đơn thuần là cái nhìn không gian mang tính vật lý của sự chảy trôi từ ngày sang đêm. Có lẽ Thạch Lam luôn nhìn cuộc sống trong những góc khuất của nó nên trong truyện của ông ta thường thấy có hình ảnh bóng tối. Bóng tối đã tạo thành một bầu khí quyển riêng. Trong truyện có không dưới 30 lần tác giả trở đi trở lại với hình ảnh đêm tối, bóng tối. Mở đầu truyện là cái thế lụi tắt của ngày tàn và sự xâm chiếm của bóng tối khi “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khi “các nhà đã lên đèn” cũng là lúc bóng tối được cảm nhận rõ rệt nhất bởi những hòn đá nhỏ cùng “một bên sáng, một bên tối”. Bóng tối không ập đến bất ngờ mà cứ lặng lẽ, âm thầm từng khoảnh khắc một vây bọc lấy tất cả mọi cảnh vật. Bà cụ Thi sau khi ngửa cổ dốc tọt cút rượu to đã “đi lẫn vào bóng tối” và bóng tối đả nuốt dần tiếng cười khanh khách nửa điên nửa dại của cụ. Sau tiếng cười của cụ Thi, đêm mới thực sự là đêm “một đêm mùa hạ êm như nhung” với những con người “từ từ đi trong đêm”. Cái chấm lửa vàng lơ lửng như ma trơi của gánh phở bác Siêu “đi trong đêm tối” càng tô đậm thâm cái tối của đêm phố huyện. Cảnh đêm tối ở phố huyện được Thạch Lam nói đến đây không phải là một đêm do mất điện hoặc không trăng mà “đêm tối đối với Liên đã quen lắm” quen đến nỗi trong cái tối của đêm Liên nhìn xuyên qua nó để thấy được “con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà” mặc dù cứ mỗi lúc “càng sẫm đen hơn trước”. Ngay cả tiếng trống cầm canh cũng bị cái tối của đêm làm cho quánh lại “khô khan không vang động ra xa” mà “chìm ngay vào bóng tối”. Đoàn tàu đêm đi qua, cả phố huyện bừng sáng lên chốc lát rồi lại bị bóng tối vây bọc. Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn hạt đỗ trong gian hàng tồi tàn của chị em Liên được vặn nhỏ hơn nữa và Liên sau khi “nhìn quanh đêm tối” đã chìm trong giấc ngủ “tịch mịch và đầy bóng tối”.
Có thể nói, hình tượng đêm tối không chỉ tạo nên một bầu không khí riêng cho câu chuyện mà hình tượng ấy đã tạo nên một sức ám ảnh mạnh mẽ, gây nên cảm giác phập phồng, lo lâu, hồi hộp, mong đợi, hi vọng để rồi thờ dài ở người đọc. Bóng tối trở thành một thế lực thống trị phố huyện, nó len lỏi, thâm nhập vào mọi sự vật. Nó như một con quái vật khổng lồ nuốt chừng cả cảnh và người phố huyện. Bóng tối không chỉ là cái nền của bức tranh phố huyện mà còn là không gian xã hội, không gian nghệ thuật của tác phẩm. Bóng tối chính là biểu tượng cho cuộc sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc không lối thoát của những kiếp người nơi phố huyện. Bóng tối cứ đè nặng lên số phận khiến cho họ đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé, đã tội nghiệp, hầm hiu càng hẩm hiu tội nghiệp.
Đối lập với bóng tối là ánh sáng. Thực chất nhà văn đã dùng thành công một cách xuất, sắc nghệ thuật tương phản. Sự tồn tại của những chấm sáng sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có bóng tối, ngược lại, tả bóng tối cũng là đã chứng minh sự tồn tại của những chấm sáng, những chấm sáng lắt lay mà bóng tối có thể nuốt chưng bất cứ lúc nào. Nhưng như một quy luật của sự sinh tồn, ánh sáng dù lắt lay vẫn cứ tồn tại. có lẽ suốt thiên truyện là sự giao tranh gay gắt. mà lặng lẽ giữa bóng tối và ánh sáng.
Ánh sáng tự nhiên không chỉ có ánh mặt trời “đỏ rực” mà còn có ánh sáng lấp lánh” của vòm trời bởi những vì sao đêm. Dưới mặt đất còn có ánh sáng của “những con đom đóm bay là là”.
Ánh sáng nhân tạo gồm ngọn đèn chị Tí; ngọn đèn dầu vặn nhỏ của chị em Liên mà “từng hột ánh sáng lọt qua phên nứa”; bếp lửa của bác phở Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất cát: ánh sáng của “cái thau sắt trắng” mà gia đình bác Xẩm mù để trước mặt được ánh sáng của xung quanh hắt vào; ánh sáng của tàn nhang rụng xuống đường ray; ánh sáng của “hai ba người cầm đèn lồng lung lay cái bóng dài”. Ngoại trừ ánh sáng mà đoàn tàu mang đến và ánh sáng hiện lên trong tâm tướng của Liên về Hà Nội còn lại tất cả đều ở thế lụi tàn, leo lét, rơi rụng, mờ dần.
Ánh sáng ngọn đèn của ngọn đèn chị Tí và cả cái bếp lửa của bác Siêu chỉ đù chiếu sáng một vùng đất cát” và có lẽ đêm càng về khuya càng yếu ớt. Ngọn đèn của chị em Liên thì vặn nhỏ tối đa chỉ vừa đù cho “từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Những ngọn đèn lồng di động lung lay có thể tát bất cứ lúc nào. Những vì sao trên trời và những con đom đóm dưới đất chỉ “nhấp nháy” lúc sáng lúc tắt. Thảm hại nhất và cũng là chi tiết tuy bâng quơ mà giàu ý nghĩa nhất là chiếc thau sắt trắng của gia đình bác xẩm. Mỗi gia đình đều có một chút ánh sáng dù leo lét, gia đình bác xẩm với công việc “đặc trưng” của mình nên không dùng đèn nhưng vẫn còn có một chút ánh sáng – đó là sự chia sẻ của những người xung quanh dù vô cùng ít ỏi. Chiếc thau sắt trắng đã hắt lên thứ ánh sáng dược “hứng” từ ánh sáng của mọi người xung quanh.
Ánh sáng của phố huyện là thứ ánh sáng yếu ớt và trong phạm vi rất hẹp. Nó chỉ như những viên sỏi ném vào “cái ao lớn” của bóng tối. Ánh sáng không làm cho phố huyện sáng lên mà thậm chí còn gợi cho người ta cảm nhận rõ hơn về bóng tối. Ánh sáng phải chăng chỉ là một sự cầm cự kéo dài, một sự vật lộn với bóng tối để tồn tại. Cũng như những cư dân phố huyện, ánh sáng của phố huyện là biểu tượng cho kiếp sống lắt lay, mòn mỏi, thảm hại, những kiếp người cũng như những kiếp đèn bé nhỏ kia, có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. có lẽ Thạch Lam, bằng cách này, đã âm thầm chứng minh cho một câu ngạn ngữ của phương Tây: “Đời người như ngọn nến”. Đời người nói chung đã vô cùng mong manh. Đời người của những cư dần phố huyện nơi đây lại càng mong manh gấp vạn lần. Họ chỉ là những đốm sáng yếu ớt bị bỏ quên giữa hoang mạc tăm tối của cuộc đời. Điều đáng nói hơn cả là Thạch Lam đã tạo nên sự đối chọi gay gắt giữa hai mảng tối – sáng, đặc biệt là ngọn đền dầu leo lét chị Tí.
Bức tranh đời sống phố huyện được mở đầu bằng cảnh chợ tàn. Cảnh chợ tàn của bức tranh phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng những nét vẽ hiện thực khiến cho phố huyện lộ rõ thực chất nghèo đói, thảm hại của nó. Đó là những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, và lá mía” – chợ nghèo nên “rác thải” của chợ cũng chẳng có gì. Ấy thế mà vẫn có “mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom đi lại tìm tòi” rồi thì “nhặt thanh nứa, thanh tre”. Có gì đây mà nhặt. Chi tiết này thường xuất hiện trong truyện của Thạch Lam như một nỗi ám ảnh từ thời thơ ấu hằn vào tâm hồn nhà vãn “duy cảm” để trở thành một tình thương mến day dứt, ngậm ngùi.
Khi bóng tối xuất hiện, những cư dân kiếm sống ban ngày vừa ngập vào bóng tối thì những cư dân kiếm sông ban đêm quanh ga xép lại từ bóng tối kéo ra. Bằng một chút ánh sáng yếu ớt, những con người này bị vây hãm bởi bóng tối. Họ là những cuộc đời tàn, bên cạnh những đồ vật tàn trong một khung cảnh tàn lụi héo úa.
Bắt đầu cho sự chuyển giao giữa chiều và tối là cảnh mấy đứa trẻ lom khom… đi lại… nhặt nhanh., tìm tòi.. Và để tô thêm những bóng dáng xiêu vẹo đó, tác giả tả tỉ mỉ những thứ “rác thải” của một phiên chợ nghèo và cái mùi ẩm mốc bốc lên cùng vài người về muộn còn nói rốn với nhau thêm vài câu chuyện rời rạc.
Mẹ con chị Tí có lẽ là nhân vật điển hình nhất cho cuộc sông lay lắt, ngoi ngóp của hố huyện này. Gánh hàng của mẹ con chị là tâm điểm trong bức tranh sinh hoạt nơi phố huyện khi đêm xuống. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre ra ga bày bán hàng nước. Đã biết, là không bán được gì mà vẫn cứ đi, đi vì biết đâu kiếm thêm được vài xu ít ỏi. Đó đâu phải là sống, đó chẳng qua là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trở đi trở lại với ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Ngọn đèn lắt lay cố chống chọi với bóng tối cũng giống như cuộc đời của chị lay lắt chống chọi với đói nghèo, ảm đạm và buồn tẻ. Đây là hình ảnh không chỉ có sức ám ảnh đôi với Liên mà đôi với cả tác giả và người đọc. Thạch Lam đã dồn không biết bao nhiêu thương mến xót xa vào đấy để rồi đọc những trang viết của ông, hình ảnh ngọn đèn cùng số phận chị Tí cứ len lỏi cả vào giấc ngủ.
Bác phở Siêu có vẻ khá hơn bởi ở cái đất nghèo này phở là một thứ xa xỉ. Tiếng đòn gánh kĩu kịt cùng với mùi thơm ngầy ngậy và chấm lửa vàng lơ lửng vừa đem lại cho phố huyện một chút sinh khí chưa đủ ấm đã lại rơi vào một tiếng thở dài cho sự ế ẩm.
Gia đình bác xẩm ngồi đấy tự lúc nào bởi đối với bác ta ngày và đêm đều có nghĩa gì đâu. Cả nhà sinh sống, chơi đùa, “làm ăn” trên một manh chiếu rách với một chiếc thau sắt dùng để đựng của bố thí. Bác xẩm góp chuvện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng và thằng con phụ họa bằng cách bò ra đất nhặt những rác bẩn để nghịch.
Tưởng như thế đã là thê thảm và đáng sợ nhưng có một con người còn đáng sợ hơn, đấy là bà cụ Thi điên. Bà xuất hiện như một cái bóng nhưng ám ảnh mãi bởi tiếng cười nửa điên nửa dại và hình ảnh người đàn bà cầm một cút rượu to dốc một hơi cạn sạch khiến người ta cảm thấy đắng chát cho kiếp người tím tạ, héo mòn, lay lắt. Ai? Cái gì khiến bà cụ Thi ra nông nổi ấy? Thạch Lam không luận bàn mà lặng lẽ đặt vào lòng trắc ẩn của người đời cái câu hỏi ấy. Cuộc sống cứ tiếp diễn theo cái đà này thì có lẽ tất cả cũng sẽ nửa điên nửa dại mất thôi. Thật thê thảm khi một người đàn bà uống rượu để tìm quên trong men đắng, càng thê thảm khi người đàn bà ấy không đủ tiền mua hẳn một chai rượu để uống cho đủ say mà quên. Một cút rượu to dốc tọt vào họng là một chi tiết rất Thạch Lam – vừa tinh tế, vừa sâu sắc mà tưởng như vụn vặt, vu vơ.
Gian hàng của chị em Liên có vẻ bình yên đứng giữa phố huyện. Mặc dù được coi là khá giả hơn nhưng cũng thật buồn tẻ, ảm đạm. Một gian hàng nhỏ xíu, xiêu vẹo, với tấm phên nửa dán giấy nhật trình, vài phong thuốc lào, cái chõng sắp gãy… Và hai đứa trẻ vừa ngây thơ vừa già nua đêu tội nghiệp. Nếu đi sâu tìm hiểu gia cảnh và hoàn cảnh hiện tại của hai đứa trẻ, ta sẽ thấy cả một sự “xuống cấp”, sa sút ghê gớm: thầy mất việc… từ Hà Nội chuyển về… thuê quán bán hàng…
Những câu chuyện tẻ nhạt, đơn điệu có lẽ hôm nào cũng lặp lại một cách bâng quơ, chậm rãi. Những con người hôm nào cũng hiện ra rồi khuất đi như những cái bóng lặng lẽ, âm thầm.
Bao quanh họ là những đồ vật tồi tàn: ngôi quán ọp ẹp, chõng gãy, chiếu rách, đàn còm, bát sứt… Những con người, những đồ vật, cảnh vật đó tạo nên gương mặt âm u, ảm đạm, buồn thiu của phố huyện. Cuộc sống cứ diễn ra theo hướng tàn tạ mòn mỏi với những con người không nguồn gốc xuất thân, không số phận thậm chí tác giả cũng không miêu tả chi tiết dáng vẻ, nét mặt… Nhưng có lẽ vì thế mà số phận họ hiện lên càng bé nhỏ, côi cút, tội nghiệp. Ai cùng nhẫn nhục, âm thầm với cái kiếp của mình như nó vốn sinh ra đã thế, lặp lại nhiều thành quen. Thật đáng sợ khi những hình ảnh lay lắt ấy cứ diễn ra trước mất hai đứa trẻ như một vòng đời quẩn quanh không lối thoát của phố huyện. Nếu cuộc sống không có kì đổi thay thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố huyện sẽ là tương lai của những thế hệ như Liên, An, con chị Tí… Liên sợ không dám nhìn bà Thi điên một phần bởi vì bà ta điên nhưng một phần vì Liên sợ cho cái tương lai của chính mình. Rồi dây Liên sẽ thành chị Tí? Bác phở Siêu? Cụ Thi điên?… Vẽ ra sự tương quan giữa hai đứa trẻ với phố huyện này, Thạch Lam đã đặt ra sự tương quan giữa những mầm cây với một thế giới già nua tàn tạ, héo mòn. Những mầm cây ấy đã mọc lên trên một mảnh đất khô cằn, bạc phếch. Chúng sẽ lên thế nào đây? Hãy cứu lấy chúng, những đứa trẻ vô tội! Đó là điều Thạch Lam âm thầm gửi gắm vào những trang viết của mình khi miêu tả bức tranh phố huyện. Và có lẽ cũng vì thế mà truyện cứ gợi lên những xót thương day dứt mãi không thôi.
Không phải những con người phố huyện không có những mong ước, hi vọng. Không có hi vọng thì loài người chắc đã bị hủy diệt lâu rồi. Nhưng hi vọng điều gì? “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự mong đợi cũng thật tội nghiệp – “Một cái gì tươi sáng” – thật mong manh, thật mơ hồ. Cái nghèo đói, lam lũ, cơ cực đã mài mòn đến cả ước mơ và hi vọng khiến cho những con người nơi đây không ngẩng đầu lên được. Ngay cả cái khả năng tự lừa dối mình để bám trụ cuộc sống có lẽ họ cũng không còn được là bao. Có thể nói, tấm lòng yêu thương của Thạch Lam đã nghiêng xuống những kiếp người nhỏ bé ấy đã mà lắng nghe, để mà chia sẻ, để mà an ủi. Cứ như thế, nhà văn trân trọng từng hột ánh sáng bằng những lời lẽ tâm tình nhỏ nhẹ mà đầy sâu sắc thấm thìa. Phố huyện và những con người phố huyện đã được bao bọc bởi một trái tim dung dị mà ấm áp của một nhà văn suốt đời mong muốn cho cuộc đời “có nhiều công bằng và yêu thương hơn”.
Trên cái nền của bức tranh phố huyện hiện lên hình ảnh hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên. Phố huyện luôn được đặt trong tầm mắt của Liên, cô bé ngây thơ mà vô cùng nhạy cảm. Thạch Lam đã mượn cái nhìn, diễn biến tâm trạng của Liên để thể hiện cảm nhận của mình trong kí ức cũng như hiện tại đối với thế giới xung quanh, từ đó tư tưởng của tác phẩm được phát biểu một cách nhẹ nhàng, kín đáo mà sâu sắc, thấm thía.
Bắt đầu là nỗi buồn của Liên trước một buổi chiều tàn. Liên đã “ngồi yên lặng” để cho tất cả buổi chiều lặng trầm và u uất thấm thía vào tận tâm hồn để rồi “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần. Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác”. Đoạn văn giống như một câu thơ trữ tình mang âm hưởng trầm buồn ngọt ngào thấm thía và man mác bâng khuâng. Trong tâm hồn Liên có một chút, ngày thơ của trẻ con và một chút già dặn của người lớn cộng với một chút cái tôi lãng mạn khó cắt nghĩa. Liên chính là hiện thân của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Thạch Lam.
Liên không chỉ buồn trước cảnh chiều tàn, Liên còn buồn trước những kiếp người tàn và cuộc sống cứ như một tiếng thở dài, nhẹ mà sâu. Nhìn những đứa trẻ nhà nghèo bới rác “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền đế mà cho chúng nó”. Một niềm thương cảm vừa bùi ngùi, vừa xót xa cứ dâng lên trong hồn Liên giống như cái cậu bé Sơn hồi nào trong Gió lạnh đầu mùa lặng nhìn những đứa trẻ nghèo tím tái vì rét.
“Bóng tối cứ ngập đầy dần” trong đôi mắt Liên và cũng ở khang cửa sổ tâm hồn ấy, những chấm sáng cùng với những con người hiện ra trong tình thương mến. Tình thương mến ấy được thể hiện qua những câu chào hỏi ân cần với chị Tí, qua cái cử chỉ “lẳng lặng rót rượu” cho cụ Thi rồi tuy có hơi run sợ vẫn “đứng sững nhìn theo cụ đi lẫn vào bóng tối”. Tình thương ấy không chỉ tụ lại nơi ngọn đèn chị Tí, chiếc thau sắt của gia đình bác xẩm, đóm lửa nhỏ của gánh phở bác Siêu, mà có lẽ trùm phủ lên toàn cảnh phố huyện, thậm chi đến cả những hòn đá nhỏ “một bên sáng, một bên tối” khi mà đêm buông xuống, trăng về khuya, tâm trạng của Liên càng u uất, xao xác đến tội nghiệp.
Cũng có lúc, Liên lặng ngắm “vũ trụ thăm thẳm bao la”. Những cái “bí mật” và xa lạ” của nó đã làm “mỏi trí nghĩ” của Liên và Liên lại “chúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Như vậy, cũng như Thạch Lam, tâm hồn Liên dù có lãng mạn tới đâu cũng không thoát li”, không “lãng quên” mà luôn gán với cuộc đời, với con người.
Cái nhạy cảm của Liên với cuộc đời còn thể hiện ở chi tiết: từ gánh phở của bác Siêu mà Liên sống lại với những kí ức tuổi ấu thơ khi gia đinh còn ờ Hà Nội. Tuy “những kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là “một vùng sáng rực lấp lánh” nhưng đó chính là khởi nguồn sâu thẳm cho tâm trạng thấp thỏm đợi tàu của Liên ở cuối truyện. Đêm nào Liên cũng đợi, và đêm nào cũng háo hức như lần đầu để rồi sau đó lại chìm và cuộc đời đầy bóng tối. Tâm trạng đợi MU của Liên cùng là tâm trạng mòn mỏi đến xót xa, hi vọng đến tội nghiệp. Nếu tinh ý sẽ thấy một tiếng thở dài rất nhẹ của chị em Liên qua chi tiết: “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?” (câu hỏi của An). “Liên không đáp, chuyến tàu đêm nay thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Niềm vui chưa trọn thì một chút lo âu mơ hồ xuất hiện. Rồi từ đêm mai… đêm mai nữa… rất có thể sẽ không còn chuyến tàu đêm ấy nữa. Cuộc sống sẽ ra sao khi con người ta không còn niềm tin và hi vọng?.
Kết thúc tác phẩm là tiếng vang động nhỏ dần “mất dần trong bóng tối, lắng tai nghe cũng không thấy nữa” chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác Siêu đi vào làng, “vợ chồng bác Xâm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ”. Và Liên, Liên “gối đầu lên tay nhắm mát lại”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Đúng là “một đêm mùa hè êm như nhung” giấu đi những tiếng thở dài cố nén của biết bao kiếp người. Giấc ngủ của Liên là giấc ngủ yên tĩnh mà thực ra đầy xao động và có gì nằng nặng, buồn buồn, thương thương, tồi tội khiến đọc xong những dòng cuối cùng, gấp trang sách lại mà bao nhiêu nỗi niềm day dứt, trăn trờ khiến ta thao thức mãi không thôi.
Tác giả đã mượn tâm trạng nhân vật để tạo nên nỗi ám ảnh nơi người đọc rất nhiều lần Thạch Lam như muốn nhấn mạnh tới cái ngây thơ của chị em Liên: “Không hiểu sao”, Liên “tưởng là”, Liên “mơ hồ”, Liên “không hiểu”, Liên “thấy” mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, … Có thể Liên không hiểu, không biết thật nhưng chính cái từ “không” ấy đã “bẫy” người đọc khiến người ta sa vào những bất định mông lung. Người đọc đã trôi theo dòng tâm trạng của nhà văn là “lây nhiễm” cái cảm giác chập chờn bất định của nhân vật. Người ta sống với nhân vật, buồn nỗi buồn mơ hồ của nhân vật tự lúc nào không hay biết. Đó chính là ma lực của truyện ngắn Thạch Lam.
Liên vừa giống những con người phố huyện vừa rất khác họ. Giống vì cùng với họ cô là một nét trong bức tranh u buồn đầy bóng tối: cũng dọn hàng, cũng góp vài lời đứt quãng, cũng có một ngọn đèn leo lét, với một gian hàng còm gồm: thuốc lào, xà phòng, diêm… Và cùng với những con người nơi đây, những con người trong bóng tối ảm đạm âm thầm mơ hồ “mong đợi một cái gì tươi sáng” …
Nhưng Liên lại rất khác với những cư dân phố huyện. Cô tách ra làm thành một điểm nhìn của “cái tôi chú thể” không chịu đánh mất mình trong cái tổng thể có nguy cơ biến mất vì đang ở quá trình nhạt nhòa, leo lét. Liên không phải là một cô gái quê nhưng cũng không hẳn là một cô gái thị thành. Trong Liên có cả nét giản dị, mộc mạc lẫn sự phức tạp, khó hiểu đầy lãng mạn. Cô không chỉ biết chúi đầu nhìn những quầng sáng trên mặt đất, cô còn biết thả hồn theo những vì sao lấp lánh đế tìm sông Ngân Hà. Cô không chỉ quen nhìn con đường tối từ làng ra bờ sông mà còn biết mơ tưởng về một thế giới đầy ánh sáng dù mơ tường ấy rất đổi mong manh và có lúc vụt biến mất. Liên là một đứa trẻ, dù có lớn hơn An nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ với tất cả những gì ngây thơ của một đứa trẻ. Nhưng trong Liên lại có cả sự trưởng thành thậm chí có cả cái già nua của một người lớn. Chính sự nhập nhoạng giữa hai vùng sáng – tối ấy đã có sức tự khen lên những giai điệu buồn trong một tâm hồn buồn khiến người đọc bị xâm chiếm, bị ám ảnh và cứ rưng rưng một niềm thương cảm.
Mỗi điểm khác biệt nữa của Liên với những cư dân phố huyện là niềm khao khát hướng tới ánh sáng. Cái nghèo nàn đơn điệu nơi phố huyện tuy khiến Liên không giấu được một tiếng thở dài nhưng cũng không ngăn được ở cô những ước mơ, những khao khát về một sự đổi thay, một thế giới tươi sáng. Nhà văn đã lắng nghe, đã thấu hiểu và đã trân trọng những tia hi vọng nhỏ bé ấy của con người. Đó chính là giá trị nhân đạo nhẹ nhàng mà sâu sắc thấm thía của tác phẩm.
Nỗi xót thương của Liên, tâm trạng của Liên, cảm xúc của Liên thật ra là cảm xúc, tâm trạng, nỗi xót thương của Thạch Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật và bằng lối văn duy cảm, ông đã đưa người đọc nhập vào thế giới tâm hồn nhân vật, người đọc sẽ liên tưởng, hình dung tới điều tác giả muốn đặt ra.
Điều mà tác giả muốn đặt ra trong Hai đứa trẻ mặc dù giản dị và nhẹ nhàng nhưng luôn luôn có ý nghĩa đối với con người ở mọi thời đại. Hãy biết, lắng nghe cuộc sống xung quanh và chắt chiu những gì tốt đẹp nhất. Điều đó tưởng dễ nhưng chỉ cần một chút vô tình ta sẽ bỏ qua. Thạch Lam đã kéo con người xích lại gần nhau hơn từ những điều hết sức bình thường ấy.
Bài số 2
Thạch Lam đã miêu tả bức tranh phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu, cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo.
Thạch Lam (1910-1942) là thành viên của Tự Lực văn đoàn. Gần mười năm cầm bút, ông để lại một văn nghiệp khiêm tốn: 3 tập truyện ngắn (Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc) một truyện dài “Ngày mới”, một tập kí “Hà Nội 36 phố phường”. Ngoài ra, ông còn có tập tiểu luận “Theo dòng” và hai truyện thiếu nhi (“Quyển sách” và “Hạt ngọc”).
Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự Lực văn đoàn. Nguyễn Tuân đã khẳng định tính thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.
Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. “Dưới bóng hoàng lan”, “Nhà mẹ Lê”, “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” đây là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.
Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, Nhà xuất bản “Đời nay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẩu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.
Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và vô thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.
Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông”… cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê, “phương Tây đỏ rực như trời cháy…”, “Một chiều êm ả như ru” có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo vo trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, cho thấy một tấm lòng sâu nặng gằn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.
Nhưng “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiều tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm của hai đứa trẻ – hai chị em Liên và An.
Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, cô thấy “lòng buồn man mác”, đôi mắt “bóng tối ngập đầy dần” và cái buồn của buổi chiều quê thâm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: “Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dãy sáng xanh trong hiệu khách…”. Cát trên phố “lấp lánh từng chỗ”, đường “mấp mô thêm” trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ “vãn từ lâu” là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi “nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thế dùng được cửa các người bán hàng để lại”. Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương, nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng. Cái nghèo là cảnh đời chung của mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là “mùi riêng của đất, của quê hương”. Đó chính là mùi vị của cái “Ao đời”, của lầm than và nghèo khổ.
Bóng tối như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người “bé nhỏ” nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến, tiếng động khẽ của hoa hàng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười “giòn giã” của bà cụ Thi… tất cả mọi âm thanh ấy “chìm ngay vào bóng tối”. Phố huyện càng về đêm càng tịnh mịch và đầy bóng tối.
Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra”. Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau “đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc…”. Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm” mà “chả kiếm được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong “Gió lạnh đầu mùa”, mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh… Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương!
Bà cụ Thi hơi điên, tiếng cười “khanh khách”, tay cầm cút rượu soi lên rồi cười “giòn giã, “vừa đi vừa ngửa cổ dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng “lảo đảo” lẫn trong bóng tối… cũng gợi cho ta nhiều thứ, xót xa về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo.
Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật. Vợ chồng ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con bò lê la trên đất “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác Siêu, bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không hao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu! “kĩu kịt”, bóng bác “mênh mang ngả xuống đất . Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn lạ và cơ cực.
Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quê, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo lèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Liên là một cô gái mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá”, Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên… “từng hột sáng lọt qua phên nứa”, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn “lay động trên chõng hàng chị Tí”, chấm lửa nhỏ và vàng “lơ lửng” nơi gánh phở bác Siêu… từ đêm này qua đêm khác, Liên vẫn ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, “tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”.
Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi… Đoàn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng”, rồi nó “đi mò đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng…” với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ủi, một nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát, bừng sáng lên khoảnh khắc, để rồi sau đó, “từ phía xa, bóng đêm lồng với bóng người đi về”. Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.
Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ còn đêm khuya, “tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố huyện nghèo:
Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc lào,… bấy nhiêu con người nhỏ bé đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả bức tranh phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu, cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong “Thay lời bụt” – Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết: “Truyện “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng gióng lên một cái gì đó ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và cái ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín”.
Bài số 3
Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thúy.
Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, là con người có tính cách đôn hậu, điềm đạm và tinh tế thế nên các tác phẩm của ông cũng mang cái vẻ trong sáng, giản dị, thâm trầm và sâu sắc. Ông là nhà văn có biệt tài về truyện ngắn, với nội dung thường khai thác những vẻ đẹp của cuộc sống đời thường bình dị ở không gian phố huyện ven đô ngoại thành, vốn là không gian sống quen thuộc của nhà văn trong thời thơ ấu cơ cực, vất vả tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Những ngày tháng ấy đã trở thành dấu ấn không thể phai mờ, trở thành một không gian nghệ thuật thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam. Hai đứa trẻ nằm trong tập truyện Nắng trong vườn (1938), là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất mang đầy đủ phong vị sáng tác truyện ngắn theo cách riêng biệt của Thạch Lam. Nội dung chính của tác phẩm là khung cảnh phố huyện và bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên với những xúc cảm đặc biệt, sâu sắc nổi bật lên trên cái nền tàn tạ, tối tăm của phố huyện lúc chiều tàn và khi đêm xuống.
Truyện có lẽ chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ.
Chuyện hầu như chỉ có thế. Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.
Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại… như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối…
Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”… Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi…
Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ có lẽ đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn””. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.
Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố…” Liên trông thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” nhưng “chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó…”. Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi đi lẫn vào bóng tối… “Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”… Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “không sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc.
Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như hế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng trưng”; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi…
Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh.
Không thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỷ niệm sáng tươi…
Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã dùng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.
Đọc Hai đứa trẻ ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê vào một “chiều mùa hạ êm như ru” và “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”… Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm “êm mát và sâu kín”.
Bài số 4
Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam được bạn đọc biết đến nhiều nhất. Tác phẩm được in trong tập Nắng trong vườn (1938). Truyện gây ấn tượng cho người đọc bởi văn phong nhẹ nhàng, giàu tình người tình đời. Ấn tượng khó quên trong lòng người đọc về thiên truyện ngắn này có lẽ là hình ảnhhai đứa trẻ mà cô bé Liên là nhân vật được nhà văn Thạch Lam tập trung khắc họa nhiều nhất.
Liên là cô bé mới tám tuổi, cái tuổi mà theo như người xưa nói “biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Nói đúng hơn là tuổi vô lo. Nhưng mọi điều đều ngược lại. Dưới ngòi bút của Thạch Lam, Liên hiện lên với hình ảnh của một cô bé như già đi trước tuổi. Tuổi thơ chìm trong nỗi buồn của sự tàn tạ, héo úa của một cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc không lối thoát. Đối với tâm hồn thơ bé ấy, đoàn tàu đêm từ Hà nội về chạy ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối cùng cho một niềm đau.
Thầy Liên mất việc và đặt dấu chấm hết cho những tháng ngày sống ở Hà Nội. Con phố nhỏ Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương nơi đón chị em Liên về là một nơi đói nghèo trong rơm rạ với những kiếp người bé nhỏ, lay lắt. Bản thân gia đình Liên cũng chẳng khá giả gì hơn: mẹ làm hàng xáo, chị em Liên trông coi gian hàng tạp hóa nhỏ xíu với những thức hàng lặt vặt, ngày phiên mà chẳng bán được bao nhiêu?
Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời. Tâm trạng của Liên cũng diễn tiến theo thời gian: từ chiều hôm cho đến khi đoàn tàu ngang qua phố huyện. Truyện mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều. Đó âm thanh báo hiệu ngày tàn và cũng là âm thanh chấm hết một ngày đầy ánh sáng mà thay vào đó là bóng tối và nỗi buồn. Thạch Lam mở đầu truyện rất hồn hậu, rất thơ với bức tranh quê bình dị, man mác hương đồng gió nội với ” Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đó cũng là thời khắc mở ra thế giới tâm trạng của Liên, là lúc mà “Trong đôi mắt Liên bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Buồn mà thấy “không hiểu sao” có nghĩa là cái buồn ghê ghớm lắm. Buồn mà không biết mình buồn vì cái gì thì thật là đau khổ không gì bằng. Thạch Lam đã để nhân vật tự nhận thức và tự bộc lộ tâm trạng chứ không cần kể lể dài dòng. Và bóng tối đã trùm lên phố nhỏ, trùm lên đồng ruộng, trùm lên cả nỗi buồn của Liên đang thoi thóp thở.
Trong bóng chiều nhá nhem, Liên nhìn về bãi chợ nơi những người bán hàng về muộn. Liên động lòng thương những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người bán hàng”. Hình ảnh đó như xoáy sâu vào lòng trắc ẩn của cô bé tám tuổi giàu lòng nhân ái. Liên thấy thương những đứa trẻ nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Thế đấy, nhân vật Thạch Lam thường ít nói nhưng suy tư nhiều và mang đến những vẻ đẹp của tình người đằng sau những nghĩ suy tha thiết về cuộc sống.
Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê ghớm “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối là hiện thân của sự tù túng ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh đất nước ta trước năm 1945 đầy nước mắt:
Cha ông ta từng đấm nát bàn tay trước cánh cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng mà đời im ỉm khóa
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi
Thạch Lam đã dùng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ tội nghiệp ” mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những phận người với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Liên thương hết thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này. Đó chính là chị Tý với cuộc đời cơ cực “mò cua bắt ốc”, tối đến cùng ghánh hàng nghèo xơ xác chỉ với bát nước chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc… tất cả gia tài mưu sinh bên ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Liên thương bác phở Siêu với ghánh phở xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng thấy bác dọn hàng. Thương bác xẩm với manh chiếu rách tả tơi cùng chiếc thau trắng trống trơn chưa một niềm hi vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp chuyện bật trong yên lặng. Thương bà cụ Thi điên đơn chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối… Cuộc sống phố huyện là như vậy. Đơn điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện
Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? May ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối cùng để ru hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt theo sau ông thần nông cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi trẻ con. Nhưng buồn thay, bầu trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy. Bởi “vũ trụ bao la và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai đứa trẻ”. Để rồi cuối cùng chính chúng lại quay về với quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế trong đêm tối những con người tội nghiệp ngồi chờ đợi một điều gì đó cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.
Và đoàn tàu từ Hà Nội về đã thực sự là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Họ thức đợi chuyến tàu vì mưu sinh hay vì lí do nào khác nữa. Tất cả thao thức, đợi chờ như thể đợi chờ một phép màu sẽ đến. Họ mong bán được chút hàng để gỡ gạc cho cuộc sống ngày mai. Còn riêng hai đứa trẻ, chúng không thức đợi chuyến tàu để bán hàng mà vì lí do khác. Chúng muốn được nhìn thấy đoàn tàu qua phố huyện vì đoàn tàu như mang một thế giới khác đi qua đủ làm cho chúng rạo rực và ánh lên niềm vui sướng dù chỉ là trong chốc lát. Vì thế đêm nào cũng vậy dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng cả hai chị em vẫn cố thức để đợi chuyến tàu. Điều đó cho thấy đoàn tàu là một hình ảnh đã trở thành quen thuộc và ăn sâu trong tâm hồn hai đứa trẻ và chờ tàu đã trở thành một khát vọng mãnh liệt và là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng.
Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt. Mới bảy, tám tuổi mà mẹ bắt trông coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho tới khuya để chờ bán hàng thì quả là tội nghiệp. Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua phố huyện không phải là nghe lời mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu. “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Đó là câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với chị. Câu nói bình thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót thương. Nó chứa đựng trong đó là tất cả niềm khát khao và hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào giấc ngủ, Liên ngồi im lặng, đầu óc chị bỗng dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được “hoa bàng rụng xuống vai Liên từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. có lẽ nhà văn muốn cho nhân vật của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thoáng trong tiếng gió xa xôi là tiếng đoàn tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu “Đèn ghi đã ra kia rồi!”. Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em ” dậy đi An, tàu đến rồi!”. Lời giục dã gấp rút, hối thúc như thể nếu An không dậy thì sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của hai chị em mà cái háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động và giàu chất nhân văn.
Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi chờ ấy bằng cách đứng gần hơn nữa. Và rồi “tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua”. Đây là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An có lẽ quên hết thảy những nỗi buồn hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây chỉ có đoàn tàu. Đoàn tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường ngang qua phố huyện “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường… những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đó là ánh sáng của sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nơi phố huyện. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch ngang qua bầu trời phố huyện rồi mất hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát vọng của biết bao nhiêu số phận con người bé nhỏ đang mong ngóng. Đoàn tàu mang một thế giới khác đi qua, chính là khát vọng muốn được đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ muốn được đến với những chân trời mới, nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ không còn cảnh đói nghèo lam lũ, không có cảnh đơn điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được nhận một cuộc sống như thế, tại sao không? Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý. Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong khát vọng và kết thúc bằng nỗi buồn rưng rưng nước mắt.
Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã “đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Sự nuối tiếc của họ có lẽ đã phơi bày tất cả một cuộc sống nghèo nàn, bế tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng ” Tàu đêm nay không đông và có lẽ kém sáng hơn “. Nghĩa là đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn hai đứa trẻ chứ không thể nào phá vỡ bức tường thành mang tên “nỗi buồn” của chúng. Và Liên lặng người đi trong suy tưởng, đằng sau ánh sáng của đoàn tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi nhớ về Hà Nội nơi có ánh sáng của những ngọn đèn, nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong tâm tưởng và cũng là vầng sáng trong ký ức tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao nhiêu là buồn bã. Chính đoàn tàu đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức biết bao điều tươi đẹp. Cuộc sống ấy thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm sao được khi ký ức không thể trở về. ” Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh. Một tương lai mù mịt”. Đáng buồn thay!
Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý . Một giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù đọng không lối thoát mà biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.
Với lối viết nhẹ nhàng, mỗi truyện tựa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, Thạch Lam đã mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc về những thân phận cuộc đời trong xã hội cũ. Qua nhân vật Liên nhà văn đã làm toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp, giúp chúng ta thấu hiểu nỗi buồn đau của dân tộc trong thế kỷ bạo tàn dưới ách đô hộ của bọn thực dân và đế quốc. Trang văn khép lại rồi mà ta còn thấy trước mắt mình hình ảnh hai đứa trẻ ngồi đấy giữa phố huyện nhỏ nghèo tăm tối đang đợi chờ chuyến tàu đi qua trong khát vọng mỏi mòn.
Bài số 5
Thạch Lam được mệnh danh là một trong những cây bút lãng mạn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Với lối viết giản dị, giàu cảm xúc những tác phẩm của ông đã để lại nhiều suy tư trong lòng người đọc. “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm như vậy. Với lối viết bình dị, tâm tình cùng nhiều cung bậc cảm xúc, Thạch Lam đã tạo ra một cô bé Liên với nhiều suy tư, ẩn chứa nhiều ý nghĩa.
“Hai đứa trẻ” được đánh giá là một tác phẩm lạ bởi chất trữ tình đã khiến một tác phẩm truyện lại như không phải là truyện. Câu chuyện là mảnh ghép của những lát cắt của một buổi chiều tà nơi phố huyện nghèo nàn. Bước ra từ tác phẩm là hình ảnh của kiếp người khác nhau trong cái nơi tù túng, đói khổ đó. Ngần ấy con người, mỗi người một công việc, một số phận, một câu chuyện nhưng họ cùng có một điểm chung là cuộc sống hằng ngày quanh quẩn bên cái đói, cái nghèo. Và tất cả đều chỉ quan tâm đến miếng cơm manh áo nhưng nổi bật lên trong bức tranh ấy là hình ảnh Liên với những khát vọng và mơ ước đẹp đẽ.
Qua ngòi bút của Thạch Lam, Liên hiện lên với dáng vẻ của một cô bé như đang già đi trước tuổi bởi khả năng quan sát cùng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm khó thấy được ở cái tuổi mười tám, đôi mươi. Ngay từ khi đứng trước khung cảnh của một buổi chiều tà, Liên đã cảm thấy long mình man mác buồn: “Cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nỗi buồn ấy là cái buồn mơ hồ, cái buồn của cái tuổi mới lớn, của một cô gái nhạy cảm với mọi cảnh vật xung quanh. Thạch Lam đã mở đầu tâm trạng buồn đấy của Liên bằng không gian của một chiều tối với tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài bờ ruộng. Cái khung cảnh ấy chính là khởi nguồn cho tâm trạng buồn bã của Liên. Và chính từ đây, trong cô dội lên một sự thương xót, đồng cảm đối với “những đứa trẻ con nhà nghèo” đang kiếm tìm, nhặt lại những mẩu vụn còn vương vãi trên nền đất của cái chợ quê nghèo.
Không chỉ quan sát, lắng nghe mà tâm hồn nhạy cảm của Liên còn cảm nhận được “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Phải thân thuộc, gắn bó với mảnh đất này, phải thấm thía bao nhiêu cái nghèo khổ, vất vả của nơi đây thì cô bé mới cảm nhận được cái hương vị quen thuộc nhưng lại chẳng mấy ai để ý đó? Đến những câu chữ này, Liên hiện lên trong suy nghĩ của người đọc không chỉ là một cô bé nhạy cảm nữa mà còn có một tâm hồn trong sáng, một trái tim giàu trắc ẩn.
Và trong cái thời khắc ngày tàn đó, hình ảnh duy nhất mà hai chị Liên đang mong chờ, hy vọng là chuyến tàu đêm đi qua phố huyện nhỏ. Đối với hai chị em chuyến tàu mang theo đó ánh sáng về một tương lai được quay trở lại với cuộc sống của những ánh đèn xanh đỏ, của đồ ăn ngon, của sự giàu có. Đó là thế giới khác hẳn với cuộc sống ở cái phố huyện nghèo này.
Liên là một cô gái còn rất nhỏ nhưng với trái tim biết cảm thông, biết yêu thương, với những mong ước được hướng về tương lai tươi sáng, Liên có những sự quan sát tỉ mỉ những con người nơi đây. Liên thấy một bà cụ Thi điên say rượu rồi bỗng bật cười khanh khách rồi những bước chân, dáng hình đó cũng dần chìm vào bóng đêm còn tiếng cười thì cũng xa dần, xa mãi. Đó là hình ảnh hai mẹ con chị Tí ngày ngày dọn gánh nước chè mưu sinh nhưng lại chẳng kiếm được bao nhiêu. Ta còn thấy trong bức tranh là hình ảnh của bác phở Siêu cả đêm chẳng kiếm được đồng nào, hình ảnh cả gia đình bác Sẩm “run rẩy” bên chiếc đàn bầu cùng tiếng nhạc cứ khắc khoải mãi không thôi. Phố huyện nghèo, con người hiện lên trong phố huyện cũng nghèo nàn như thế. Ngần ấy con người trong phố huyện ngày ngày chỉ biết sống lầm lũi trong bóng đêm, sống qua ngày. Cái nghèo đói, khổ sở có lẽ cứ bám theo họ hết ngày này qua ngày khác. Cô bé nhỏ tuổi ấy đã nhìn thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của chính miền quê cô đang sống. Đồng cảm với họ, thấu hiểu họ chính vì thế Liên càng mong ngóng chuyến tàu đêm đi qua – thứ ánh sáng duy nhất mang theo cuộc sống phồn hoa, giàu có cho cả phố huyện này.
Kết thúc câu chuyện là hình ảnh hai chị em Liên cùng nhau ngắm nhìn đoàn tàu đi qua rồi khuất dần, biến mất để lại trong Liên bao tiếc nuối, suy tư: “”Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng” khiến người đọc không khỏi xót xa.
Có thể thấy, xuyên suốt câu chuyện là hình ảnh về một cô bé với tâm hồn nhạy, nhiều suy tư nhưng chính những mạch suy nghĩ đó của Liên đã phản ánh sự đối lập của hai thế giới: một bên là cuộc sống tươi đẹp, tràn ngập ánh sáng với bên còn lại là phố huyện nghèo nàn, vất vả. Từ đây Thạch Lam muốn cho người đọc thấy được cái cuộc sống đáng thương của những đứa trẻ nghèo, của những kiếp người nhỏ bé, vô danh trong cái xã hội khi mà đất nước vẫn đang chìm đắm trong nô lệ, nghèo đói.
Một tác phẩm theo khuynh hướng lãng mạn, một câu chuyện tưởng như không có cốt truyện nhưng lại lôi cuốn người đọc lạ kỳ bởi hình ảnh thiên nhiên, con người được miêu tả dù buồn, dù khổ cực nhưng vẫn toát lên những vẻ rất thơ của nó. Và chính cái bức tranh hiện thực chìm lấp sau cái thơ mộng trữ tình đó khiến người đọc càng thấm thía hơn cái giá trị nhân văn cốt lõi của tác phẩm để mà biết trân trọng hơn những giá trị đó.
Có thể nói Thạch Lam đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh của Liên để từ đó gián tiếp truyền tải những triết lý sâu sắc của mình. Và có lẽ đây cũng chính là điều làm nên sự trường tồn cho tác phẩm.
Tham khảo các bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp của Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, nét đẹp hiên ngang bất khuất và đầy chất nhân văn.
Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên là những nội dung nổi bật nhất trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Với lối văn duy cảm, Thạch Lam đã len lỏi vào tâm hồn nhân vật và miêu tả chân thực những cảm nhận của người trong cuộc. Những bài văn mẫu sau đây sẽ giúp các bạn hình dung rõ hơn những điều này.