asd
Trang chủGiáo DụcLớp 11Văn mẫu lớp 11: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt...

Văn mẫu lớp 11: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo gồm 14 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ học văn học của mình với những bài văn mẫu phân tích nhân vật hay.

Văn mẫu lớp 11: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo cực chất dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Bên cạnh đó các bạn xem thêm phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

  • Dàn ý phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người (2 Mẫu)
  • Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
  • Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ngắn (6 Mẫu)
  • Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đầy đủ (6 Mẫu)

Dàn ý phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

Dàn ý số 1

a) Mở bài

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

  • Nam Cao (1917 – 1951) là nhà văn hiện thực lớn, nhà báo kháng chiến, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
  • Chí Phèo là một trong những tác phẩm có giá trị hiện thực cao giúp cho người đọc có cái nhìn khái quát hơn về một hiện tượng xã hội ở vùng nông thôn Việt Nam trước năm 1945.

– Giới thiệu bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo: Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

b) Thân bài

* Khái quát về tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được Nam Cao viết năm 1941 dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng, ông đã hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng.

– Giá trị nội dung: Truyện đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.

* Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?

– Bi kịch là sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng, mơ ước, mong muốn con người.

– Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo.

* Luận điểm 1: Bi kịch thể hiện trong tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu truyện

– “Hắn vừa đi vừa chửi. ” – > sự xuất hiện tự nhiên.

– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:

  • Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
  • Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường

=> Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai coi hắn như một con người.

* Luận điểm 2: Bi kịch bị khước từ quyền làm người ngay từ khi sinh ra

– Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người:

  • Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông
  • Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi
  • Tuổi thơ sống trong bất hạnh
  • Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội đã bóp chết ước mơ lương thiện ấy

=> Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường, ngay từ khi mới sinh ra đã bị chối bỏ.

* Luận điểm 3: Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

  • Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
  • Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

– Hậu quả của những ngày ở tù:

  • Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì cơng cơng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” – > Chí Phèo đánh mất nhân hình.
  • Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến – > Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.

– Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù – > Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến.

=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực.

* Luận điểm 4: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo – > định kiến của xã hội.

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

  • Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
  • Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

– Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:

  • Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
  • Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.

=> Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng.

* Đặc sắc nghệ thuật

– Xây dựng nhân vật điển hình vừa sống động, vừa có cá tính độc đáo

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo

– Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ

– Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính

– Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên

– Giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt.

c) Kết bài

– Khái quát lại bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

– Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch.

Dàn ý số 2

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo: Đại diện cho khuynh hướng hiện thực. Chí Phèo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này

– Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

II. Thân bài

1. Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?

– Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người

– Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo

2. Bi kịch được thể hiện ngay trong tiếng chửi của Chí đầu truyện

– “Hắn vừa đi vừa chửi..”.: sự xuất hiện tự nhiên

– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:

  • Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
  • Đằng sau đó thấy Chí Phèo la nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường

⇒ Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai coi hắn như một con người

3. Bi kịch bị khước từ “quyền làm người” ngay từ khi sinh ra

– Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người :

  • Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có
  • Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông
  • Tuổi thơ sống trong bất hạnh
  • Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội bóp chết ước mơ lương thiện ấy

⇒ Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường ngay từ khi mới sinh ra đã bị chối bỏ

4. Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

  • Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
  • Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

– Hậu quả của những ngày ở tù:

  • Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình.
  • Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.

– Quá trình tha hóa của Chi Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Ba Kiến

⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực

5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

  • Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
  • Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

– Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:

  • Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
  • Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người

⇒ Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bươc đường cùng

III. Kết bài

– Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phầ thể hiện thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

– Khẳng định đây là bi kịch chung cho những người nông dân trong xã hội cũ

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là kiệt tác của dòng văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo đại diện cho những người nông dân cùng cực bị đẩy đến đáy cùng của xã hội. Những tưởng cuộc đời Chí sẽ chìm trong đêm tối nhưng sau khi gặp thị Nở Chí đã hồi sinh kiếp sống làm người. tuy nhiên éo le thay bởi định kiến của bà cô thị cũng là của toàn xã hội đã gây bi kịch bị cự tuyệt làm người cho Chí thật đau đớn, xót xa để lại cho độc giả nhiều ám ảnh bởi tiếng kêu “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?”

Nam Cao thật tài tình khi đã khắc họa được tâm phức tạp của nhân vật khi bị thị Nở từ chối với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, hành động bên ngoài và lời kể lời bình của tác giả…, đây là đoạn văn của đỉnh cao cho sự cởi nút thắt câu chuyện cũng là nút thắt trong cuộc đời nhân vật để cho hắn một lối thoát tất yếu cho bi kịch bị cự tuyệt làm người.

Năm ngày bên thị thật bình yên hạnh phúc tưởng rằng cuộc đời Chí được hoàn lương từ giây phút ấy nhưng thị lại là một người đàn bà dở hơi, ngẩn ngơ đem câu chuyện tình của mình xin ý kiến bà cô một người mang trong mình những định kiến xã hội không tốt về Chí. Bà cô già vẫn chưa có chồng thấy thị hỏi thì bật cười tưởng đùa nhưng khi biết tất cả sự thật lại hoảng hốt và cảm thấy nhục cho ông cha nhà bà, bà chua xót, uất ức cho bản thân đã dùng những lời lẽ cay độc xỉa xói vào mặt thị. “Bà gào lên như con mẹ dại”, “Có lấy thì lấy ai chứ, đàn ông chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu lấy một thằng không cha không mẹ. Ai lại lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ăn vạ”. Thị nổi giận đùng đùng sang nhà nhân ngãi chút tất thảy những lời lẽ cay độc ấy vào mặt hắn rồi “ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về”. Vậy là con đường hoàn lương của Chí vừa được hé mở đã nhanh chóng đóng sầm lại bởi định kiến xã hội tàn bạo không cho Chí cơ hội để trở lại làm người lương thiện, chân chính.

Chí đau đớn và thất vọng khi bị thị Nở chối từ. Hắn cứ ngồi ngẩn người, ngẩn mặt không nói gì. Điều đó cho thấy Chí đã hiểu về thói đời và cảnh ngộ của mình. Hắn ngửi thấy mùi cháo hành đây là một chi tiết độc đáo được lặp lại bởi đó là dư vị tình thương ít ỏi mà Chí đang rất cần. Tại sao nó lại chỉ xuất hiện “Thoáng một cái” trong lúc này như để trêu ngươi, chọc tức Chí. Hắn muốn níu giữ hương vị ấy, níu giữ tình người còn sót lại dù chỉ chút ít nên khi thị quay đi thì “Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại… hắn đuổi theo thị nắm lấy tay” nhưng lại bị “Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân” nỗ lực níu giữ đến cuối cùng cho con đường hoàn lương bởi chỉ có thị mới có thể mở đường cho hắn, thị là cầu nối cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng nhưng một lần nữa hắn lại bị hắn hủi, ruồng bỏ phũ phàng, người đàn bà cho hắn tình thương và hạnh phúc, đặt trọn niềm tin và hi vọng nay cũng “rướn cái môi vĩ đại mà ném vào mặt hắn bao lời chửi mắng”. Như thế Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn, hắn đã bị xã hội cự tuyệt quyền làm người.

Từ tận cùng của nỗi đau là sự phẫn uất và tuyệt vọng. Điều đó được thể hiện rõ trong suy nghĩ và hành động cuối cùng của nhân vật. Cũng như bao lần trước “đã lăn ra thì hắn phải kêu” phải uống, phải đập đầu rạch mặt ăn vạ nhưng “tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!” hắn không ngửi thấy mùi rượu sặc sụa nhưng lại “thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành tình người lần thứ ba được nhắc đến làm cho lương tri Chí trỗi dậy mạnh mẽ để rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Đã bao lâu rồi hắn mới có được cử chỉ và giọt nước mắt của con người. Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu là giọt nước mắt cảm động hạnh phúc khi bưng bát cháo hành trên tay và kết thúc cũng là giọt nước mắt đau khổ khi bị thị Nở bỏ rơi. Cuộc đời thật nhẫn tâm khi cho người ta hy vọng rồi lại ném vào trong tuyệt vọng, cuộc đời cũng thật tàn ác khi mở đường cho Chí hoàn lương làm người tử tế rồi lại biến Chí trở thành con quỷ tàn ác nhất ngay cả với chính mình.

Nỗi tuyệt vọng dâng đến đỉnh điểm tột cùng của căm uất với hành động kết thúc “Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng”. Cũng như mọi lần hắn vừa đi vừa chửi và dọa giết “nó”. Nó trong suy nghĩ ban đầu của Chí chính là thị “Hắn phải tự đến nhà con đĩ Nở kia. Để đam chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó” nhưng không biết vì điều gì mà hắn lại xông xông vào nhà cụ Bá. có lẽ lúc này Chí không còn là một tên say rượu mà hắn đang rất tỉnh táo, chỉ có khi tỉnh táo thật sự mới có thể cảm nhận được nỗi đau đến vô cùng và hiểu rõ tội ác của kẻ thù đã hủy hoại đời hắn. Chí Phèo đã “trợn mắt chỉ tay” vào mặt Bá Kiến vênh vênh cái mặt kiêu ngạo mà khẳng định: “Tao đã bảo là tao không đòi tiền” mà dõng dạc đòi làm người lương thiện, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Tiếng kêu thống thiết trước khi giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình đòi quyền làm người, đòi được sống trở lại cho dù đang khi đang thở ở đoạn cuối tác phẩm: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ còn một cách…biết không! Chỉ còn một cách là…cái này biết không!” Lời nói của Chí đanh thép đầy căm uất và phẫn nộ, tiếng thét lên từ bi kịch của nỗi đau và hình ảnh hắn giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi để lại ám ảnh cho người đọc bởi điều đó thể hiện cho một chân lí giọt nước đã tràn ly, tức nước thì vỡ bờ đó là điều tất yếu.

Cái chết của Chí Phèo là hành động minh chứng cho sự khủng hoảng và bế tắc, tuyệt vọng không lối thoát, nó là kết quả cho sự hồi sinh và thức tỉnh của Chí, đó cũng là con đường duy nhất để Chí được làm người lương thiện bởi chỉ có kết thúc được những tháng ngày của quỷ dữ mới có thể bắt đầu để sống đúng nghĩa cuộc đời mình. Chí chết về ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận kiếp sống của thú hoang đành đóng cánh cửa cuộc đời này lại để mở ra cuộc sống mới ở kiếp làm người sau. Hoàn cảnh của Chí Phèo phản ánh một hiện thực mâu thuẫn, xung đột gay gắt của người nông dân với bọn địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Cái chết của Chí cảnh cáo cho xã hội phong kiến nửa thuộc địa nếu không sửa đổi sẽ không biết còn có bao nhiêu người như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo rồi còn những Chí Phèo còn bản sao của Chí Phèo bố chưa ra đời. Nam Cao cũng chỉ ra một chân lí khách quan trong xã hội mà Karl Marx từng nói: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.

Nam Cao với tấm lòng của nhà nhân đạo chủ nghĩa đã lựa cho Chí Phèo một lối thoát cho con đường hoàn lương hợp lí nhất. Chí Phèo không những được kể lại bằng ngôn ngữ của tác giả mà còn cả ngôn ngữ của các nhân vật khác như thị Nở, bà cô thị hay dân làng Vũ Đại. Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật được nhà văn tái bút thành công. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Nam Cao muốn đặt câu hỏi lớn về quyền sống và quyền làm người: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa làm người trong một xã hội phi nhân tính chỉ toàn sự chà đạp, lừa dối và bất công như thế? Câu hỏi ấy vẫn còn là những suy tư trăn trở trong lòng độc giả mà bấy lâu nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Liệu rằng có một kết thúc khác cho truyện ngắn “Chí Phèo” được không?

Như vậy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo được Nam Cao thể hiện rất sinh động, cuốn hút để lại người đời nhiều suy ngẫm. Cái chết của Chí và tiếng thét đòi làm người lương thiện sẽ ám ảnh mãi trong lòng độc giả bởi Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp nông dân với mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội cũ, nhà văn đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của họ bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự cảm thông xót thương chân thành.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đạt điểm cao

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Câu chuyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút ty thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỷ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng ”mơ hồ buồn”. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ”có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con người, Chí đang thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng cho dù bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cao vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần gặp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.

Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ ”hết sức ngạc nhiên” đến xúc động ”thấy mắt mình như ươn ướt” bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà”. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành 1 người đàn bà có duyên, cũng biết lườm yêu, biết e lệ, biết ”ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng ”vợ chồng”. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn ”thế này” đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị.. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở – một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1 tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiện lương, của lòng lương thiện.

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là 1 thằng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào 1 bi kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Chí Phèo 1 lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng ”ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này k như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: ”Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao không thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và không còn lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh không cho anh trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận đc cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát sửa đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ngắn

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí – Mẫu 1

Nếu như Thúy Kiều của Nguyễn Du gặp phải bị kịch đớn đau về tình yêu và Hộ gặp phải bi kịch éo le về nghệ thuật đương thời thì Chí Phèo của Nam Cao lại gặp một loại bi kịch vô cùng lạ lùng. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Chí Phèo bước ra từng tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao với một loạt những khổ đau, những bất hạnh. Và cũng không phải vô tình mà Nam Cao lại dành hết những gì là đớn đau nhất cho “đứa con đẻ” của mình. Ngòi bút sắc sảo và tấm lòng giàu yêu thương của ông đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm cùng với sự cảm thông sâu sắc tới những con người cùng khổ như Chí. Chí chỉ là một đứa trẻ mồ côi chưa một lần được biết đến hơi mẹ.

Chí ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm dục hãm hại khiến Bá Kiến ghen tuông đẩy Chí vào tù. Năm tháng của tù đày đã cùng Chí nuôi lòng thù hận ngày một lớn dần lên. Cho đến khi ra tù Chí trở thành một con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại khiếp sợ. Còn Nam Cao chỉ tả chỉ với hai từ ngắn gọn “ghê tởm”. Nhưng khi gặp được Thị Nở – cuộc đời Chí ít nhất cũng đã được biết đến bàn tay chăm sóc của một người đàn bà thực sự. Nhưng thị lại nghe lời bà cô cự tuyệt mối tình ấy, khiến Chí một lần nữa trở thành con quỷ dữ. Trong cơn uất hận, Chí đến giết Bá Kiến và tự vẫn để đòi quyền làm người lương thiện.

Câu chuyện kết thúc nhưng bi kịch về cuộc đời Chí vẫn làm người đọc không khỏi xót xa. Được sinh ra làm người nhưng lại bị chính những con người xung quanh mình cự tuyệt quyền làm người. Hay nói đúng hơn là không ai nhìn nhận Chí là một con người nữa. Thay vào đó là một con quỷ dữ không hơn không kém. Con quỷ ấy trước đây đã từng là một con người lương thiện, hiền lành chịu khó. Nhưng giờ đây lại ôm hận trở về làng với những cơn say triền miên. Say lại chửi. Chửi cho quên đời, cho bõ tức, cho hả lòng hả dạ. Nhưng càng chửi, càng bực. Bởi ai cũng “chừa mình ra” thì Chí chửi ai bây giờ? Đến ngay cả tiếng chửi xúc phạm đến người khác Chí cũng chẳng được ai để ý. Bởi nếu là một người bình thường khi tung ra những lời lẽ chua ngoa ấy kiểu gì cũng bị dân làng xúm vào chửi lại, thậm chí là đánh đập. Nhưng Chí thì lại khác. Chỉ có lũ chó chạy theo sủa ầm ĩ. Chẳng ai hiểu rằng đằng sau những tiếng chửi ấy là một nỗi niềm khát khao đến cháy bỏng được quay trở về làm người. Chỉ cần có ai đó chửi lại thôi cũng đủ để Chí thấy rằng mình vẫn được công nhận làm người. Nếu sống một cách bình thường, có thể không ai để ý đến Chí. Có lẽ Chí nghĩ rằng phải chửi thật xúc phạm, thật nhiều để xem có ai chửi lại không, để Chí biết rằng mình vẫn còn được nhìn nhận. Nhưng buồn thay, tiếng chửi của Chí chỉ có tiếng chó sủa đáp lại.

Cho tới khi gặp được Thị Nở, cuộc đời Chí bước sang một trang mới. Chí ý thức được bản thân mình. Lần đầu tiên Chí tỉnh, tỉnh rượu và tỉnh cả những dòng suy nghĩ đau đáu về lòng thù hận. Không ngờ sự chăm sóc ân cần của một người đàn bà dở hơi lại có sức mạnh tác động lớn đến Chí như vậy. Tỉnh táo, Chí cũng chẳng mảy may nghĩ rằng thị chỉ là một người dở hơi, xấu xí. Vì rằng điều mà Chí khát khao bấy lâu nay là được nhìn nhận là người đã đạt được. Thậm chí thị còn dành cho Chí những hành động, cử chỉ của một “người yêu” thực sự. Chính thị – một con người chỉ hơn Chí ở cái là được mọi người nhìn nhận là người – đã đánh thức phần người trong Chí. Có lẽ cũng vì thị dở hơi nên thị không ý thức được về hiện trạng của Chí lúc này nên thị mới ngã vào lòng Chí. Nhưng dù sao điều đó cũng đã là một ân huệ lớn lao cho cuộc đời Chí.

Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu sau những cơn say. Chí bắt đầu cảm nhận hương vị của cuộc sống từ những điều bình dị nhất, giản đơn nhất: tiếng mái chèo, tiếng chim hót, tiếng người đi chợ qua lại… Và rồi, ước mơ trong sáng đến thánh thiện ngày nào trở về trong Chí. Chí ước có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn kiếm tiền, vợ thêu thùa chăm lo việc gia đình. Hạnh phúc nhỏ nhưng cuộc sống êm đềm ý nghĩa biết bao. Nghĩ vậy, Chí càng quyết tâm quay trở lại làm người lương thiện. Sẽ bỏ rượu. Sẽ không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Từ nay sẽ sửa đổi. Nhưng. Than ôi! Hạnh phúc đang phất lên thì lại bị hất văng ra khỏi bàn tay yếu ớt của Chí khi thị trở về nghe lời bà cô cự tuyệt Chí. Như vậy, đến ngay cả con người cuối cùng của xã hội này mà Chí đặt niềm tin vào cũng không thể kéo Chí dậy được. Thậm Chí còn đẩy Chí vào bờ vực thẳm sâu hơn, đớn đau hơn. Lúc này đây, hương cháo hành lại làm Chí xôn xao trong người. Niềm khát khao được làm người chưa bao giờ cháy bỏng và mạnh mẽ đến thế. Nhưng ai sẽ cho Chí được làm người đây? Và lại là một người lương thiện thì càng khó. Ước mơ giản đơn ngày nào của Chí chẳng lẽ bị vùi dập nhanh chóng như thế này sao? Hạnh phúc tưởng chừng như đã ở trong tầm tay nhưng lại bỗng dưng vụt mất. Chí hụt hẫng, khổ đau.

Như vậy, tất cả mọi người, không một ai còn nhìn nhận Chí là một con người nữa. Có thể sẽ có người nói rằng: Chí hoàn toàn có thể tự mình làm người lương thiện bằng cách sống tốt hơn, không chửi bới, không say xỉn và xin đi làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Rồi dần dần mọi người sẽ lại quý mến Chí, cho Chí những cơ hội tốt hơn để tiến thân. Nhưng cuộc sống đâu phải dễ dàng đến vậy. Nhất là trong xã hội ấy, giai cấp cầm quyền là đại diện cho những điều gian ác nhất, bất nhân nhất. Liệu rằng Bá Kiến có để cho Chí được sống một cuộc sống êm đềm không khi hắn đã từng có thù hằn với Chí? Hơn nữa, khi đã mang trong mình lòng thù hận quá sâu sắc, liệu rằng ai có thể bình thản mà sống được. Có thể do Chí chưa mạnh mẽ, chưa đi đúng hướng nên đã để xảy ra những bi kịch đớn đau trong cuộc đời mình. Nhưng khi nhìn bằng cái nhìn khách quan, Chí chính là kết quả của một xã hội phong kiến thối nát, tàn nhẫn. Chí là đại diện cho những người nông dân bần cùng bị xã hội dồn ép đến mức đánh mất cả nhân tính, để đến khi muốn quay trở lại làm một con người bình thường cũng chẳng được nữa. Đây là một loại bi kịch lạ lùng nhất trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học hiện thực nói riêng.

Qua tấn bi kịch ấy, nhà văn đã chĩa thẳng ngòi bút của mình đến thế lực phong kiến độc ác đã lấy đi nhân tính của biết bao nhiêu người nông dân lương thiện. Đồng thời ông cũng bênh vực và cổ vũ mọi người hãy cùng nhau đứng lên giành lấy quyền sống, quyền tự do cho chính mình để không ai phải tìm đến cái chết một cách thương tâm giống như Chí Phèo ở cuối tác phẩm.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí – Mẫu 2

Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Đây là bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nói chung.

Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.

Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù. Khi ra tù, Chí sửa đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê quỷ hờn”. Bát cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.

Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện làm trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch bi thương. Chí Phèo suốt đời mang khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người để rồi chết trên con đường trở về lương thiện.

Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh một thằng say “vừa đi vừa chửi”: “Hắn chửi trời…Rồi hắn chửi đời…chửi cả làng Vũ Đại…chửi đứa nào không chửi nhau với hắn…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn…”. Mới đọc, ai cũng hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu và lè bè chửi; và chắc rằng ai cũng cảm thấy bật cười trước hình dung này. Tuy nhiên, đọc và ngẫm cho kĩ, sau cái cười lại là niềm thương cảm, đau đớn cho Chí Phèo. Hắn chửi và mong người ta đáp chửi lại hắn bởi như thế người ta còn coi hắn là con người. Nhưng không ai lên tiếng vì không còn ai công nhận hắn là người. Đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, là nỗi cô đơn khủng khiếp của một người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không được coi là con người .

Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao dẫn dắt người đọc trở lại với quá khứ, giúp người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời hiểu ra căn nguyên nào dẫn đến tình trạng ấy.

Sinh ra, Chí đã bị ba mẹ cự tuyệt quyền làm người: sự ra đời của nó không ai chờ đợi, cha nó không thừa nhận, mẹ nó bỏ nó trong một lò gạch hoang mặc cho sống chết. Được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn trở thành hàng hóa mua qua bán lại. Sau khi bác phó cối chết, hắn trở thành kẻ bơ vơ. Đời Chí bọt bèo, lênh đênh tội nghiệp chẳng khác nào cây hoang, cỏ dại trôi hết góc này đến số nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ. Nhưng không vì thế mà hắn trở nên hư hỏng mà trái lại, “hắn hiền như cục đất”, ai sai gì hắn làm nấy, ai bảo gì hắn nghe vậy. Làm thuê trong nhà Bá Kiến, hắn là anh canh điền chăm chỉ, cần cù, chỉ biết làm ăn, biết tự trọng, có nhân cách.

Nhưng Bá Kiến, nhà tù thực dân đã ra sức hủy diệt sự lương thiện ở Chí. Bá Kiến ghen vu vơ đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù, nhẫn tâm biến người dân hiền lành trở thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào, bắt giam là anh Chí vô tội nhưng thả ra là một Chí Phèo lưu manh, tha hóa. Trở về, không gia đình, không người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành tay sai của Bá Kiến. Hắn sống bằng chửi bới, dọa nạt, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ. Cái mặt của hắn trở nên méo mó thê thảm, “nó là mặt của một con vật lạ, nó vằn lên không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Bây giờ hắn không là con người nữa mà phải sống kiếp con vật, hắn sống trong vô thức, sống triền miên những cơn say. Sự sửa đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là bởi sự xa lánh của mọi người khi hắn trở về. Nếu như, khi về làng, hắn có được tình yêu thương chăm sóc của một số người, thậm chí chỉ là một người như Thị Nở, thì hắn đã không bị bóp méo cả nhân hình lẫn nhân tính. Thực tế không như thế. Người ta kì thị trước một kẻ đi tù về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn là con người nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết. Lâu dần, người ta lại không coi hắn là con người nữa, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để rồi ngày càng sa vào vũng lầy tội ác và không thể trở lại làm người nữa.

Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo. Tình yêu và sự chăm sóc của thị đã đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài con quỷ dữ. Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, bởi hắn nghĩ rằng, Thị Nở có thể sống được với hắn thì tại sao mọi người lại không thể. Thế nhưng, bà cô Thị Nở – một đại diện của dân làng Vũ Đại – đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy. Sự ngăn cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh nhận ra bi kịch đau đớn mà bấy lâu nay hắn đã mơ hồ nhận thấy: bị cự tuyệt quyền làm người. Lời bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội với hắn. Định kiến xã hội đã không coi Chí như là con người, nó chối phắt Chí, đẩy Chí ra khỏi phạm vi loài người. Định kiến ấy không chịu nhận ra phần người lương thiện đã quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí. Có thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất.

Bà cô Thị Nở làm hắn nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình, hắn lại uống rượu, nhưng lần này càng uống hắn càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, khi phần người quay về thì nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến lí trí vẫn tỉnh táo, hắn nhận ra kẻ thù. Đến nhà Bá Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết. Tuy lên tiếng đòi lương thiện nhưng đồng thời Chí cũng đau đớn nhận ra không thể là người lương thiện được nữa: “ai cho tao lương thiện, làm thế nào cho mất hết những vết mảnh chai trên mặt này”. Nhận thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và nguyên nhân của bi kịch, Chí hành động quyết liệt: giết Bá Kiến. Giết lão bá rồi, Chí cũng không còn có thể sống mà làm người được, bây giờ, nếu Chí tiếp tục sống, hắn sẽ phải tiếp tục là con quỷ, hắn “chỉ còn một cách” là tự vẫn. Hai vũng máu thảm khốc cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến. Những thế lực này đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, và cùng với thế lực hủ tục phong kiến tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.

Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính vừa thể hiện tấm lòng thương yêu đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc tên mình vào nền văn học hiện đại Việt Nam.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí – Mẫu 3

Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.

Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.

Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn. cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ. mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách. Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.

“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.

Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ. của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.

Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.

Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí – Mẫu 4

Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói, con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng. Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân làm khát vọng từ đó đẩy những cá nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường, khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.

Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.

Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở. Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này. Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí. Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn dĩ Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.

Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở. Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh, như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng – nơi mà hắn đã từng bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, nó cứ hiện lên trong lòng Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đây được biết đến như một con quỷ nay lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.

Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng. Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.

Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí – Mẫu 5

Trong giai đoạn văn học 1930- 1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Chí Phèo” đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là “Cái lò gạch cũ”, sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành “Chí Phèo”, tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn

Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mâu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn “Chí phèo”, tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mâu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự định, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vắng. Con người đến với cuộc đời như bị quăng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ “trông đặc như 1 thằng săng đá” rồi sau đó bá Kiến làm tốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự “Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo “rồi hắn còn suốt ngày sau rượu” cứ rượu vào là hắn chửi”. Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì “hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện” Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bởi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khai thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người.

Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được “1 người đàn bà cho”. Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. “Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao “hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng Thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hẳn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng”. Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi

Tác giả đã dùng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi “ngẩn người”, hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trạng tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc “Tao muốn làm người lương thiện”, câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, “chém túi bụi vào người bá Kiến” rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiện của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí – Mẫu 6

Còn điều gì đau đớn và xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó là bi kịch đau xót nhất của con người – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời và hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.

Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ có tiếng chửi là văng vẳng vang lên ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt, phẫn uất đến vậy ? Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về, hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không ngần ngại chửi. Nhưng chỉ có một mình Chí độc thoại, không có bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc nó trừ mình ra. Thành thử ra chỉ có tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.

Chí Phèo ra đời ở một cái lò gạch cũ cũ hoang, được một anh thả ống lươn mang về nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền được làm người. Dù được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến nhà khác. Cuộc đời Chí không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi. (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời Chí đã là một bi kịch.

Khi lớn lên, là một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Bá Kiến, Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị bà ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông. Bi kịch thứ hai đổ ập xuống đầu Chí. Nhà tù thực dân với những ngón đòn độc ác, dã man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gớm,. khiến ai cũng phải sợ hãi. Hắn uống rượu say, đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ và cuối cùng trở thành tay sai cho Bá Kiến. Hắn làm mọi việc mà Bá Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo chìm sâu vào hơi men, nhân tính và nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác [. ] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt [. ] Chưa bao giờ hắn tỉnh [. ] Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy. Giá thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình – Thị Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình mà bấy lâu nay hắn cố tình không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.

Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình mà rất đỗi giản dị, đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của sự sống: tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ,. âm thanh thân thương và ấm áp quá. Âm thanh ấy gợi về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn là một người bình thường, với những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại và tương lai cô độc, đói rét. Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần mà hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về. Trong Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm lí đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt dù họ có bị vùi dập, tàn phá về thể xác.

Nhưng còn gì đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng. Lời bà cô chính là điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng : đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa hé mở thì đã bị xã hội độc đoán bóp nghẹt. Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Chí đã ý thức được bi kịch của chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng cho dù bản thân sẵn sàng sửa đổi để hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí. Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy nhất đó là giết tên đã gây nên bi kịch cho mình và tự giết chính mình. Chí chết đi, để giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.

Bi kịch cuộc đời Chí là do nhà tù thực dân, là do xã hội với những định kiến lỗi thời và cũng là do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa và bản chất người trong mỗi chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đạt điểm cao

Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai mảng đề tài: viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo với bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người . Đây là bi kịch phản ánh sâu sắc nỗi thống khổ của Chí Phèo nói riêng, của người nông dân VN trước cách mạng tháng Tám nói chung.

Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời trước cách mạng tháng Tám . Ban đầu, truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi” và sau này, khi in lại trong tập “Luống cày” (1946), nhà văn Nam Cao đã đổi tên thành “Chí Phèo”. Truyện kể về cuộc đời, số phận của nhân vật Chí Phèo. Chí vốn là đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, tuổi thơ sống lang thang đi ở hết nhà này đến nhà khác. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Vì ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy chí vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào để rồi sau 7,8 năm chúng biến một anh nông dân hiền lành, lương thiện trở thành tên lưu manh, thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ngu ngơ, khờ khạo, Chí bị Bá Kiến lừa gạt, dụ dỗ và biến thành tay sai, gây ra biết bao nhiêu tội ác. Chí bị cả làng xa lánh, bị đẩy vào ốc đảo cô đơn, không ai coi Chí là một con người. Rồi Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Bát cháo hành cùng với tình yêu thương, sự quan tâm, săn sóc của Thị Nở đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp trong tâm hồn Chí. Chí ao ước được trở lại làm người lương thiện, Chí hi vọng Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn. Nhưng bà cô Thị Nở ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn của đời mình: bị cự tuyệt quyền làm người. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch cho mình, đâm chết Bá Kiến rồi tự vẫn.

Bi kịch chính là sự mâu thuẫn giữa ước mơ và hiện thực. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện làm trên thực tế. Và cuối cùng, người mang khát vọng rơi vào kết cục của một thảm kịch đau thương.

Chí Phèo suốt đời mang khát vọng cháy bỏng được làm người lương thiện. Thế nhưng lại trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng lại không được làm người để rồi chết trên con đường trở về cuộc đời lương thiện.

Bước vào câu chuyện, người đọc ấn tượng ngay với hình ảnh của một thằng say rượu “vừa đi vừa chửi”: Hắn chửi trời, rồi hắn chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn. Mới đọc, ai cũng hình dung ra hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng trong cơn say, bước đi liêu xiêu và lè bè chửi, và chắc chắn ai cũng sẽ bật cười hoặc lắc đầu ngao ngán trước hình dung này. Tuy nhiên, đọc và ngẫm nghĩ kĩ, ta sẽ thấy sau tiếng cười là niềm thương cảm, xót xa dành cho Chí Phèo. Hắn chửi và mong muốn người ta sẽ đáp lại tiếng chửi của hắn bởi như thế có nghĩa là người ta còn coi hắn là một con người. Nhưng không ai lên tiếng vì không ai công nhận hắn là một con người. Đằng sau tiếng chửi ấy là niềm khát khao được giao tiếp với đồng loại dẫu bằng hình thức tồi tệ nhất, là nỗi cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt quyền làm người, không được coi là con người.

Từ cách mở đầu ấn tượng đó, Nam Cao đã dẫn dắt người đọc trở về với quá khứ, giúp người đọc nhận thấy bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời chỉ ra căn nguyên dẫn đến tình trạng ấy.

Sinh ra, Chí đã bị cha mẹ cự tuyệt quyền làm người, sự ra đời của Chí không ai chờ đợi: Chí bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, xa nhà cửa và vắng người lại qua, mặc cho sống chết. May mắn, được cứu sống nhưng ngay lập tức hắn lại bị biến thành một thứ hàng hóa, mua đi bán lại: một anh đi thả ống lươn, nhặt được hắn, anh đem về cho bà lão góa mù, bà lão góa mù lại bán hắn cho một bác phó cối không con. Rồi khi bác phó cối mất, hắn thành kẻ bơ vơ, lang thang đi ở hết nhà này đến nhà khác. Đời Chí bọt bèo, lênh đênh tội nghiệp chẳng khác gì cây hoang, cỏ dại, trôi hết xó này đến xó nọ, không người chăm sóc, dạy dỗ. Nhưng không vì thế mà hắn trở nên hư hỏng, trái lại, hắn hiền như cục đất, ai sai gì hắn làm nấy, ai bảo gì hắn làm vậy. Làm thuê cho nhà Bá Kiến, Chí là anh canh điền chăm chỉ, hiền lành, chỉ biết làm ăn, có lòng tự trọng và có nhân cách.

Nhưng Bá Kiến, nhà tù thực dân đã ra sức hủy diệt sự lương thiện ở Chí. Vì ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù, nhẫn tâm biến một người nông dân hiền lành trở thành tù nhân. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, bắt giam là một anh Chí vô tội nhưng khi trả về xã hội lại là một Chí Phèo tha hóa, lưu manh. Trở về, không gia đình, không người thân thích, không nơi nương tựa, không nghề nghiệp mưu sinh, hắn trở thành tay sai của Bá Kiến. Hắn sống bằng chửi bới, đập đầu, rạch mặt, ăn vạ, dọa nạt,….Cái mặt của hắn trở nên méo mó, thê thảm, nó không còn là mặt người, nó là “mặt của một con vật lạ, nó vằn lên không biết bao nhiêu là sẹo, không thứ tự”. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tác oai tác quái gây họa cho bao nhiêu dân làng. Hắn đã “phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của không biết bao nhiêu là người lương thiện”. Bây giờ hắn không còn là con người nữa mà phải sống kiếp của một con vật, hắn sống trong vô thức, sống triền miên trong những cơn say. Sự sửa đổi đáng sợ của Chí từ khi ra tù có nguyên nhân ban đầu là do sự xa lánh của mọi người khi hắn trở về. Nếu như, khi về làng, hắn có được tình yêu thương, chăm sóc hay ít ra là sự gần gũi, không kì thị thì có lẽ hắn đã không bị bóp méo cả về nhân hình lẫn nhân tính như vậy. Người ta đã kì thị trước một kẻ đi tù về, không ai cho hắn một nguồn giao tiếp, không ai coi hắn là con người nên hắn cứ phải say, phải chửi cho quên hết nỗi đau đời. Lâu dần, người ta đã đẩy hắn vào một ốc đảo cô đơn, cách biệt hoàn toàn với xã hội loài người, hắn làm tay sai cho Bá Kiến để ngày càng sa vào vũng bùn tội ác và không thể trở lại làm người được nữa.

Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo . Tình yêu giản dị và sự chăm sóc của thị đã đánh thức phần người lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong hình hài của con quỷ dữ. Hắn “thèm được sống lương thiện, thèm được làm hòa với mọi người”. Hắn hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn bởi hắn nghĩ rằng Thị Nở có thể sống được với hắn thì sao mọi người lại không thể. Thế nhưng, bà cô Thị Nở – một đại diện của dân làng Vũ Đại – đã dập tắt ngay niềm hi vọng ấy . Sự ngăn cấm của bà cô khiến hắn bừng tỉnh và nhận ra bi kịch đau đớn bấy lâu nay hắn đã mơ hồ nhận thấy : hắn bị cự tuyệt quyền làm người. Lời của bà cô Thị Nở đã giúp Chí nhận ra những định kiến khắt khe của xã hội đối với hắn. Định kiến xã hội đã không coi Chí là con người, nó chối phắt Chí và đẩy Chí ra khỏi phạm vi của loài người. Cái định kiến ấy không chịu nhận ra phần lương thiện đã quay về, không chịu chấp nhận một kẻ như Chí . Có thể khẳng định rằng, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lần này là đau đớn nhất.

Bà cô Thị Nở làm Chí nhận ra bi kịch đau đớn của cuộc đời mình. Hắn lại uống rượu nhưng lần này thì càng uống lại càng tỉnh. Hắn xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi “giết cả nhà nó”, “giết con khọm già nhà nó” nhưng bước chân hắn lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, khi phần người quay về, nỗi đau, nỗi phẫn uất khiến lí trí tỉnh táo, hắn nhận ra kẻ thù của mình. Đến nhà Bá Kiến, hắn lên tiếng đòi lương thiện thống thiết . Tuy lên tiếng đòi lương thiện nhưng Chí cũng đau đớn nhận ra không thể là người lương thiện được nữa : “ai cho tao lương thiện, làm thế nào để mất hết những vết mảnh chai trên mặt này” . Nhận thức được bi kịch và nguyên nhân dẫn đến bi kịch của mình, Chí hành động quyết liệt: giết Bá Kiến. Giết Bá Kiến rồi, Chí vẫn không thể sống bởi lẽ nếu Chí tiếp tục sống thì hắn phải là con quỷ dữ, điều này Chí không muốn. Chí chỉ còn một lựa chọn: đó là cái chết, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời lương thiện. Hai vũng máu ở cuối tác phẩm chính là lời tố cáo sâu sắc nhất chế độ nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến. Những thế lực này đã đẩy Chí vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, cùng với các thế lực và hủ tục phong kiến đã tước đoạt hẳn con đường trở về làm người của Chí.

“Chí Phèo” là minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn của Nam Cao. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn đã tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào “bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà bắt đầu bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người đọc lại vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện: trong tác phẩm, có đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn, cũng có đoạn như nhà văn đã hóa thân vào nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình, khiến người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. Đôi mắt đầy tình người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.

Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao vừa tố cáo sâu sắc xã hội phi nhân tính, vừa thể hiện tấm lòng thương yêu, đồng cảm của mình với người nông dân đương thời. Với “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc tên mình vào nền văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo đầy đủ

Qua trinh tha hoa

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Mẫu 1

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.

Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy.

Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.

Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi nhà tù, Chí Phèo trở thành một “con quỷ” gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.

Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo bị đẩy đến mức cùng cực.

Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào mà Chí Phèo không dám làm.

Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn phải là “cái sự thật ở đời” chân thực và chính xác.

Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.

Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đày đọa, chung sống với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc, linh hồn chất đầy thù hận và tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gườm gườm gớm ghiếc.

Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.

Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh hung hãn chính là sự giãy giụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường lương thiện mà không được.

Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chí Phèo hiền lành là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng lưu manh Chí Phèo, mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy rẫy bất công, vô nhân đạo.

Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.

Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cỗi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt đẹp mà hoàn cảnh phũ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp, những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó lâng lâng khắp người khó lí giải.

Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh, dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi, không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì đó là cả một ân huệ lớn lao.

Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn. Con người xấu xí “ma chê quỷ hờn” ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.

Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” là đã phát hiện, miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.

Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí – một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.

Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra: cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát vọng sống và sống tốt đẹp.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn sửa đổi. Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói bàn tán của những người đàn bà đi chợ về. bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say.

Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh “hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người”. Từ một “con quỷ dữ”, nhờ có tình thương yêu của Thị Nở – dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.

Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ nào, chẳng hề có một bàn tay thân thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trỗi dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại.

Những vết dọc ngang trên mặt – kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ,. đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.

Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phũ phàng. Chí đã bị chính Thị Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: “ôm mặt khóc rưng rức”.

Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nỗi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn phẫn uất, Chí Phèo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: “Ta muốn làm người lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên mặt này. Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách. biết không. “. Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.

Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Mẫu 2

Khi Chí Phèo: “Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.

“Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, có lẽ chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người”. Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng bế tắc.

Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ”. giá như. giá như. chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.

Chí là “một đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong câu văn dài, có lẽ đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.

Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đấy là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “săng đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” – “câng câng” thì còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết”. Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành tool mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù.

Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.

Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện.

Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau”.

Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.

Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người.

Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng”.

Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Mẫu 3

Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: “Khi chị Dậu, anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất”. Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.

Lai lịch = đoạn đời 1 – xuất thân của Chí Phèo là một người nông dân lương thiện.

Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha, không mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó Cối. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.

Bi kịch 1 = đoạn đời 2 – Chí Phèo đặt ra vấn đề xã hội: người nông dân bị tha hoá, đầy đoạ, lăng nhục.

Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái tool cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo là một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng với một bộ dạng rất kì quái: “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ”.

Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn là chú trọng vẻ bề ngoài, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí Phèo lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khỏe mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa nhưng có lẽ đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã hội loài người.

Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh, mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức, một tool tội ác trong tay bọn thống trị. “Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người ta sai hắn làm. Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện”. Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc, lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và tội lỗi, trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con quỷ dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi qua.

Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo lưu manh, tha hoá bị đày đọa, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị đối xử như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo thời bấy giờ.

Bi kịch 3 = đoạn đời 3: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã dành cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và quá trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận, Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về. Đó là âm thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:

“Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”

Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện. Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện và câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà cô – bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm hắn say. “hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành” – cái hương vị của tình người, tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi; hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.

Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến. Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình. Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và mãnh liệt.

Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp” thật ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.

Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.

Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo và với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Mẫu 4

Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến.Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.

Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả. ? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này. thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7- 8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức : đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ. Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.

Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp :Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. .Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò chuyện.

Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo – Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.

Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là tool lại vừa là nạn nhân của định kiến.

Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến – kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn – một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.

Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Mẫu 5

Viết về người nông dân không hẳn là đề tài mới đối với Nam Cao, thậm chí trước đây ông đã từng khai thác và xây dựng thành công nhiều hình tượng điển hình như: Lão Hạc, Hộ (Đời Thừa), dì Hảo, Lang Rận.. Thế nhưng Chí phèo lại là một điểm nhấn khác biệt giữa những số phận đang quằn quại trong đau khổ dưới sự bất công của một chế độ mục rữa, thối nát. Nếu họ vẫn giữ được nhân cách và thiên lương trong con người mình thì Chí Phèo lại hứng chịu hàng loạt tấn bi kịch nghiệt ngã từ bần cùng hóa cho đến lưu manh hóa và cuối cùng là bị cự tuyệt quyền làm người – bi kịch lớn nhất của Chí Phèo.

Thiên truyện mở đầu bằng hình ảnh khá sống động, không phải là những trang viết nhẹ nhàng, lôi cuốn dẫn dắt người đọc đến với tác phẩm như nhiều nhà văn khác. Nam Cao đánh mạnh vào tâm lí độc giả bằng tiếng chửi thông thốc như thách thức cả cuộc đời của Chí Phèo. Chân dung của một gã say rượu ngật ngưỡng đầy phẫn uất vừa đi vừa chửi. Hắn chửi tất cả những gì trên đời mà hắn có thể chửi. Tiếng chửi của Chí không phải ngẫu nhiên, hắn chửi một cách rất logic. Ban đầu hắn chửi trời, chửi đời rồi đến cả làng Vũ Đại và cuối cùng hắn kết thúc tiếng chửi trong vô vọng khi không có đứa n chịu chửi nhau với hắn. Trong cơn say vật vã, Chí ý thức rõ bi kịch của bản thân, hắn thấm thía nỗi khốn khổ khi cả làng Vũ Đại quay lưng, chẳng ai chịu giao tiếp với hắn. Và cứ thế hắn chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Chỉ với những tình tiết độc đáo, mới lạ trong tiếng chửi cay đắng của Chí phèo đã bao quát toàn bộ thảm cảnh thê lương và số phận người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ. Chí Phèo là một hình tượng điển hình cho tất cả nhưng bi kịch tội lỗi trong xã hội loài người mà chính Chí lại bị xem là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Trong quá khứ, Chí Phèo là một người nông dân lương thiện, hiền lành, thế những cái lương thiện hiền lành ấy trong phút chốc đã bị vùi dập bởi sự thối nát, gian ác của xã hội phong kiến mà nhân vật trực tiếp là tên cường hào Bá Kiến. Bị đẩy vào tù do tính ghen tuông của Bá Kiến, anh canh điền chất phác khi xưa sau khi ra tù đã biến đổi hoàn toàn cả về thể xác lẫn nhân cách “trong đặc như thằng săng đá, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng..” Chí sửa đổi hoàn toàn, hắn đã mất hết cả hình người lẫn nhân tính. Kể từ đó cuộc đời hắn trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi cho đến khi đêm định mệnh ấy xảy đến với Chí. Một thằng lưu manh say xỉn và một con đàn bà dở hơi, ngẩn ngơ, họ ăn nằm với nhau vào một đêm “rười rượi những trăng”. Cuộc gặp gỡ với thị Nở chính là bước ngoặt quan trọng cứu rỗi những tháng ngày bế tắc không lối thoát của Chí, nó hệt như một vệt sáng lóe lên từ bùn lầy tối tăm mở đường cho hắn trở về với con đường bằng phẳng của người lương thiện – khoảng thời gian bình yên trước đây hắn từng sống. Tình yêu thương, sự săn sóc ân cần của thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí sau bao nhiêu năm ngủ yên. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm hắn bâng khuâng tình dậy và cảm nhận mọi vẻ đẹp tuyệt vời của cuộc sống: “Tiếng chim hót trong lành buổi sớm”, “tiếng cười nói rôm rả của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Những âm thanh quá đỗi quen thuộc và gần gũi nhưng sao hắn cảm thấy xa lạ quá. Đắm mình trong tiếng gọi tha thiết của cuộc sống, hắn bắt đầu hồi tưởng về “những ngày xưa xa xôi” mang theo một ước mơ khát khao “,” một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải “. Hắn nghiền ngẫm quá khứ rồi lại tự chạnh lòng ở hiện tại bởi” hắn thấy mình già mà sao cô độc thế “, hắn nhận ra mình đã sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn. Giây phút được hồi sinh trở lại, hắn muốn sống sao cho thật ý nghĩa. Khi thị Nở mang bát cháo hành đến, hắn ngạc nhiên rồi lại thấy” mắt hình như ươn ướt “bởi đây là lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay đàn bà. Bát cháo hành của thị Nở là hương vị của tình người, tình yêu cuộc sống. Tình cảm ấy nhen nhóm trong con người Chí Phèo khiến hắn muốn làm người lương thiện, muốn trở về với con người nguyên bản khi xưa và thị Nở sẽ” mở đường cho hắn “, thị sẽ giúp hắn hòa nhập với cộng đồng. Hắn đặt hết niềm tin nơi thị, hắn muốn ngỏ lời với thị” giá mình cứ thế này thì thích nhỉ.. Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui? “Chỉ là lời nói vô tư như đứa trẻ nhưng chứa đựng cả một tấm lòng khát khao được hoàn lương đến nhường nào của Chí Phèo. Tình yêu thương mộc mạc nhưng chân thành đã khơi gợi bản năng của” một con quỷ dữ “mong muốn thoát kiếp làm” người hiền “. Đây chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao” nhìn thẳng vào sự thật tàn nhẫn, mở lòng ra để đón mọi vang động của cuộc đời, phải nói lên nỗi cùng quẫn của nhân dân, vì họ mà lên tiếng “.

Cuộc sống màu hồng của Chí Phèo và thị Nở thật ngắn ngủi chớp nhoáng biết bao, hạnh phúc vừa hé mở đã đột ngột khép lại bởi” hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã “. Thị hớn hở chạy về nhà xin phép bà cô cho yêu và lấy Chí phèo. Bà cô thị Nở chính là định kiến xã hội, là điển hình của những mâu thuẫn, kì thị trong xã hội độc ác. Bà không cho phép cháu mình lấy một thằng lưu manh chuyên” rạch mặt ăn vạ “. Người đàn bà cay nghiệt đang tâm đạp nát chút hi vọng mong manh còn sót lại nơi Chí. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khiến Chí trở nên đau đớn, tuyệt vọng khi thị Nở” trề cái môi vĩ đại trút tất cả lời bà cô lên Chi “. Lúc đầu Chí ngạc nhiên, Chi chợt hiểu rồi Chí lờ mờ nhận ra rằng đến một người như thị Nở mà còn không chấp nhận kẻ khốn cùng này thì còn nơi nào cho hắn dùng thân để trở về với cuộc sống bằng phẳng kia. Mọi thứ vừa được bồi lấp nguyên vẹn thì trong phút chốc chỉ vì một lời nói chua chát đã hóa thành tàn tro, trở về con số không tròn trĩnh. Quá trình diễn biến tâm lí đầy phức tạp, có phần kịch tính và bất ngờ, bộc lộ rõ nét tâm trạng phẫn uất, đau đớn của kẻ bị cự tuyệt quyền làm người. Chí như rơi vào vực thẳm của hố sâu, trở nên hụt hẫng khi niềm tin bị hất phăng một cách tuyệt tình. Hắn xót xa nhận ra sự thật phũ phàng, đau khổ chứng kiến bi kịch diễn ra trước mắt. Chính cái gọi là lương thiện, điều mà chỉ trong vài ngày ngắn ngủi trước đây, hắn khao khát chờ đợi, giờ đây đã tan biến vào hố đen của khoảng không, bị vứt bỏ một cách đốn mạt. Hắn cố níu kéo điều gì đó từ thị nhưng thị đã nhẫn tâm” gạt ra, lại giúi thêm cho hắn một cái “. Phải chăng cả xã hội đang quay lưng với hắn, không chấp nhận một thằng lưu manh như Chí tồn tại trên đời. Đau xót làm sao! Khốn nạn làm sao! Chí trở về với sự cô độc, giằng xé tâm can, hắn quằn quại trong tấn bi kịch tàn ác. Những lúc thế này, hắn lại tìm đến rượu, trong men say, hắn thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Cảm xúc ùa về rồi cứ động đậy trong lòng hắn khiến hắn ý thức rõ thị là người đánh thức bản tính lương thiện trong con người hắn nhưng cũng chính là người đã dồn ép Chí trở về với bản tính thú vật trước đây. Hắn cứ uống nhưng càng uống càng tỉnh, hắn tỉnh rồi lại tự nghiền ngẫm lại tấn bi kịch cuộc đời mình để rồi từ đó hắn thấm thía rõ tội ác của kẻ thù, kẻ đã biến tướng nhân cách và cuộc đời hắn thê thảm như hôm nay. Chí xách dao đến nhà thị Nở với mục đích giết chết” con đĩ Nở và con khọm già nhà nó “nhưng điều gì làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở để rồi hắn băng thẳng đến nhà Bá Kiến. Đây thực chất chỉ là một hành động vô thức nhưng lại là cơ hội để hắn nhận thức rõ kẻ thù thực sự của mình là ai. Đứng trước tên cường hào máu lạnh, Chí Phèo thốt lên câu nói thống khổ, bi thiết:” Ai cho tao lương thiện? Làm sao để mất những vết mảnh chai trên mặt? Tao không thể làm người lương thiện được nữa! “Tiếng kêu ai oán ấy xoáy sâu vào lòng người đọc và để lại nỗi dư âm đầy ám ảnh trong tâm khảm mỗi người. Đây không chỉ là lời vạch mặt đanh thép mà còn là bản cáo trạng súc tích tố cáo tội ác, tư cách nhem nhuốc của tên cường hào Bá Kiến. Chỉ thẳng tay chỉ vào mặt Bá Kiến và trợn mắt đòi lại quyền sống cho mình. Cái quyền làm người ấy được chứng minh bằng hành động giết chết kẻ thù và tự sát. Chí tự giết chết con quỷ dữ trong người bởi ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về, không chịu nổi kiếp sống thú vật, Chí đã tự tìm lối thoát cho mình khỏi nghịch cảnh của xã hội. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt là dấu vết của những năm tháng tội đồ, chúng trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của người dân làng Vũ Đại. Chí Phèo đấu tranh tư tưởng để giành lại quyền sống, quyền làm người. Hắn quằn quại trong vũng máu và kết thúc quãng đời tội lỗi. Dù vậy nhưng nhân cách lương thiện và khát khao được làm người lương thiện của Chí sống mãi trong lòng độc giả.

Tác phẩm Chí Phèo không chỉ nổi bật ở cốt truyện đặc sắc, mới lạ kết hợp ngôn ngữ biểu cảm, sống động cùng nhiều tình tiết hấp dẫn, biến hóa đầy kịch tính mà còn ghi dấu sâu đậm trong lòng bạn đọc tính nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Phải là người có” đôi mắt mới “và” trái tim đầy xúc cảm “nên ông mới phát hiện và miêu tả rõ nét diễn biến tâm lí cùng bi kịch đau thương của số phận người nông dân cố cùng bị lăng nhục. Nhà văn không dừng lại ở việc miêu tả ngoại hình nhân vật mà ông còn đi sâu vào từng ngõ ngách tính cách, len lỏi và tận sâu nội tâm, trạng thái của người nông dân trong quá trình bị lưu manh tha hóa để tìm tòi, khai phá” những điều mới mẻ “,” khơi những nguồn chưa ai khơi “.

“Chí Phèo” là một hình tượng rất khác so với những tác phẩm về người nông dân của nhiều nhà văn cùng thời. Một số phận nghiệt ngã đến cùng cực, khốn khổ, bi thảm đến độ không còn lối thoát nào để nhân vật thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghịch cảnh. Qua đó tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, áp bức nhưng không thể lên tiếng để bảo vệ quyền sống của bản thân.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Mẫu 6

Đã có lần tôi tự hỏi phải chăng trái tim của nhà văn là một khối pha lê tinh khiết, để qua đó bao kiếp người từ hạnh phúc đến đớn đau bi kịch đều ngả bóng lại trên trang văn. Nam Cao có lẽ là một nhà văn như vậy, sống dậy giữa tác phẩm của ông là cả một thế giới nhân vật con người, từ kiếp “Sống mòn”, “Một bữa no”…đến kiếp đời quằn quại của một con quỷ dữ bị tha hóa rồi lại bị cự tuyệt quyền làm người trong “Chí Phèo”. Lúc đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, năm 1941 nhà xuất bản đổi lại là “Đôi lứa xứng đôi” và năm 1945 in lại với tên “Chí Phèo” – một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán. Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên ra đời từ đó và gây tiếng vang lớn về một tấn bi kịch lạ lùng – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân làm được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát có thể dẫn đến cái chết. Bi kịch của Chí Phèo là tình cảnh éo le của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi rồi bị cự tuyệt quyền làm người, là một chuỗi dài bi kịch. Nhìn lại kiếp đời đầy dằn vặt, tủi hổ của Chí Phèo, ta thấy nỗi đau khổ lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội từ chối, xua đuổi.

Cách mở đầu tác phẩm của Nam Cao cũng rất lạ lùng, đó là tiếng chửi chua ngoa, đầy thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc từ phút đầu tiên. Nhà văn miêu tả dáng vẻ của Chí: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Đến đây ta chợt thắc mắc rằng vì lẽ gì mà Chí lại chửi ầm ĩ đến thế? Nhưng chúng ta sẽ dần hiểu tiếng chửi ấy không phải là tiếng chửi bâng quơ mà nó rất lô-gic. Ban đầu Chí chửi trời đến chửi đời rồi chửi cả làng Vũ Đại, chửi không biết đứa nào đẻ ra thân Chí cho Chí khổ thế này. Chí đã phải cất tiếng chửi vì thèm mong có ai đó chửi lại mình, để được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không ai chịu chửi lại Chí, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi Chí là người, không công nhận sự tồn tại của Chí, mọi người đã xóa tên Chí khỏi xã hội loài người. Chí chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, cảm giác như mình trong sa mạc cô đơn: “Hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng tiến, những câu văn ngắn, nhịp nhanh như đang xé rách, cắt vụn từng câu văn mà người đọc như thấm thía đôi phần sự quằn quạt của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người ấy. Nam Cao ngược dòng quá khứ để làm rõ quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.

Ngay từ lúc mới chào đời, Chí đã phải đón nhận bất hạnh đầu tiên, bị bỏ rơi “trong cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua”. Người ta bỏ Chí ở nơi hoang vắng đến thế chẳng khác nào bỏ rơi để Chí chết đi tại đó, ngay từ đầu Chí đã không được quyền sống để làm một con người, ấy thế mà vẫn “có một anh đi thả ống lươn về, thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp”, anh ta “rước lấy và cho một người đàn bà góa mù”. Người này bán Chí cho một bác phó cối không con. Dẫu lớn lên nhờ lòng tối của bác phó cối nhưng Chí cũng chỉ là một món hàng dùng để trao đổi, bán mua, cuộc đời của Chí trải qua tay người này người khác, bắt đầu từ những con số không: không nhà, không cửa, không cha, không mẹ, không họ hàng, không một tấc đất cắm dùi. May thay, Chí vẫn được sống, dù bơ vơ, trơ trọi nhưng vẫn trở thành anh canh điền hiền lành, lương thiện, giàu tự trọng.

Cuộc đời Chí cứ thế êm ả trôi qua sau bao tháng ngày trầm luân giữa dòng đời cho đến khi vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy Chí vào nhà tù thực dân nửa phong kiến đầy tàn bạo. Chính nơi đen tối ấy đã nhanh chóng biến Chí thành kẻ “trông đặc như thằng săng đá”. Khoảng thời gian bảy, tám năm đã thật sự biến anh nông dân hiền lành, chất phác thành một Chí Phèo tàn tạ, gớm ghiếc với “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Diện mạo của Chí có thể khiến bất cứ ai khiếp sợ. Chí Phèo đã được “đào luyện” và hấp thụ những thói xấu của nhà tù thực dân, Chí mặc “quần áo nái đen với cái áo tây vàng, trên ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với hai ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Đó là dấu hiệu cho thấy Chí đã bán rẻ linh hồn mình cho quỷ dữ để rồi trở thành một con quỷ thật sự. Chí rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ… Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

Cuộc sống theo chu trình “sáng cày sâu, chiều cuốc bẫm” của người nông dân hiền lành giờ chỉ còn là mảng kí ức xa vời, khát vọng mơ hồ đối với Chí. Mặt Chí “vàng vàng mà lại muốn xạm sạm màu gió. Nó vằn dọc, vằn ngang không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Cánh cửa cuộc đời Chí như khép lại hoàn toàn, nhân hình bị hủy hoại mà nhân tính cũng bị xói mòn. Người ta sẽ đỡ khổ nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết bọn thống trị tàn bạo để trừ khử các phe cánh đối lập đã làm phương thức “dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò” với Chí. Những tưởng số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa ấy nhưng sự xuất hiện thị Nở đã đưa Chí từ vực sâu của tội lỗi đến bến bờ lương thiện. Vai trò, vị trí của thị trong tác phẩm là rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí trở lại với kiếp đời hoàn lương mà bấy lâu Chí đã đánh mất.

Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn” ấy là đốm sáng nhỏ nhoi duy nhất còn sót lại của làng Vũ Đại có thể chiếu rọi vào khoảng trời đêm đầy tăm tối của Chí Phèo. Sự xuất hiện của thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm đã đánh thức một phần lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí. Sau khi con người lương thiện phục sinh, Chí đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Những âm thanh gợi cho Chí những hoài tưởng về một thời êm đẹp: ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một lần nữa Nam Cao lại nhắc ta nhớ về bản chất lương thiện vốn có của Chí Phèo. Đáng lẽ ra Chí cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi tỉnh dậy, Chí mới thấy mình đã già mà vẫn còn cô độc, Chí tỉnh táo nhận ra mình đang đã tới “cái dốc bên kia của đời” mà vẫn đơn côi, lẻ bóng. “Chao ôi là buồn!”, thì ra Chí cũng biết buồn, một cảm xúc bình thường của một con người, Chí sợ tuổi già ầm ập ào tới, sợ cảnh “đói rét và ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau”. Thị Nở đã thật sự sửa đổi cuộc đời Chí từ giây phút ấy. Chí thật lòng “say thị lắm”, “hắn thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”.

Thế mới thấy sức cảm hóa kì diệu của tình thương. Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo đẹp đẽ, cho Chí Phèo một tia hi vọng về một ngày không xa, Chí sẽ được công nhận là một con người.

Xem thêm: Phân tích nhân vật Chí Phèo

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo gồm 14 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ học văn học của mình với những bài văn mẫu phân tích nhân vật hay.

Sending
User Review
0 (0 votes)

RELATED ARTICLES