asd
Trang chủGiáo DụcVăn mẫuNêu cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài...

Nêu cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài Đồng Chí

Hình ảnh người lính là những hình ảnh đẹp nhất, đặc trưng nhất của dân tộc Việt Nam trong thời chiến, rất nhiều những áng thơ vẫn đã ca ngợi và khắc họa thành công, đầy cảm xúc những hình ảnh ấn tượng này, trong đó có bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính, chúng vừa có nét giống, vừa có những nét riêng khi cùng nói đến hình tượng người lính cụ Hồ.

Những bài văn mẫu mà chúng tôi giới thiệu sau đâu sẽ giúp bạn cảm nhận rõ nét hơn về nét đẹp người lính trong 2 bài thơ nổi tiếng, đó là những con người yêu nước, dũng cảm, chiến đấu hết mình, sẵn sàng vượt khó khăn, gian khổthời, những bài văn này giúp các em có thêm những tư tiệu tốt để học tốt môn văn.

Nêu cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài Đồng Chí

Tổng hợp bài văn mẫu Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Dàn ý so sánh hình tượng người lính trong 2 bài thơ

1. Mở bài :

– Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đều là những nhà thơ mặc áo lính. Họ cũng đều đã từng trải qua những ngày tháng gian khổ mà hào hùng của hai cuộc kháng chiến vĩ đại.

– Đồng Chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) là hai bài thơ rất thành công viết về đề tài người lính. Dù được sáng tác trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều xây dựng thành công hình ảnh người chiến sĩ cách mạng.

2. Thân bài :

– Hoàn cảnh sáng tác
+ Đồng chí được sáng tác vào năm 1948, giai đoạn đầu của cuộc toáng chiến chống Pháp.
+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969, giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra khốc liệt nhất.

– Xuất thân của những người lính

+ Người lính trong bài Đồng chí xuất thân là những người nông miền quê lam lũ nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá. Họ là những người lính không chuyên, vì yêu nước, căm thù giặc mà ra đi trực tiếp cầm súng chiến đấu.
+ Người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những chàng trai trẻ. Họ là những người lính được huấn luyện, đào tạo làm công việc chính là lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Mặc dù không tiếp tham gia chiến đấu nhưng họ cũng góp phần không nhỏ cho cuộc kháng chiến của dân tộc.

– Tư thế của những người lính

Trong cả hai bài thơ, những người lính đều hiện lên vởi tư thế hiên ngang, bất khuất:

+ Trong bài Đồng chí, người lính hiện lên trong tư thế Súng bèn súng, đầu sát bên đầu…

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới luôn sẵn sàng mai phục, chiến đấu với quân thù.

+ Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người lính hiện lên trong tư thế

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Đó là tư thế bình thản, đàng hoàng, hiên ngang, sẵn sàng nhìn thẳng vào gian khổ, không hề run sợ, không hề né tránh.

– Phẩm chất của những người lính

+ Tâm hồn tinh tế nhạy cảm, luôn lạc quan, yêu đời:

Người lính trong bài Đồng chí ra đi đánh giặc nhưng lúc nào cũng canh cánh bên lòng nỗi niềm nhớ về quê hương, xứ sở – nơi có giếng nước gốc đa, gian nhà không và hình bóng những người thân yêu. Hình ảnh Đầu súng trăng treo cũng là một hình ảnh lãng mạn tuyệt đẹp thể hiện được tâm hồn lãng mạn, trẻ trung, thi vị của người lính trong bài Đồng chí.

Vẻ đẹp tâm hồn của người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính được thể hiện qua những hình ảnh đầy vui tươi, dí dỏm: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng / Thấy con đường chạy thẳng vào tim. Trên con đường ra trận, thiên nhiên khắc nghiệt cũng trở nên thơ mộng, gắn bó, làm bạn với con người, con đường đến với miền Nam thân yêu luôn ở trong tim mỗi người chiến sĩ.

– Tinh thần bất khuất vượt lên mọi khó khăn, thử thách.

+ Trong bài Đồng chí, người lính phải đối mặt với những thiếu thốn khó khăn về vật chất, với căn bệnh sốt rét rừng quái ác…
+ Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người lính phải đối mặt với những khó khăn,gian khổ khi ngồi sau vô lăng của những chiếc xe không có kính.
+ Họ đều vượt qua mọi khó khăn bằng ý chí, nghị lực phi thường, bằng niềm tin tưởng, lạcquan phơi phới…

– Tinh thần đoàn kết, yêu thương, gắn bó với nhau

+ Đây là chủ dề xuyên suốt bài thơ Đồng chí.
+ Hình ảnh Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng đã thể hiện được một cách xúc động tình cảm yêu thương gắn bó với nhau của những người lính lái xe Trường Sơn.

Tình yêu đất nước, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm đánh đuổi quân thù là vẻ đẹp đáng khâm phục nhất của những người lính trong cả hai bài thơ.

3. Kết bài

– Hai bài thơ được viết vào hai thời điểm khác nhau, với những bút pháp nghệ thuật khác nhau nên đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật mang vẻ đẹp riêng, độc đáo. Người lính của thời chống Pháp nhiều suy tư, trăn trở, chiêm nghiệm, còn người lính của thời chống Mỹ lại vui tươi, dí dỏm, hồn nhiên với sức trẻ và nhiệt huyết tràn đầy.

– Hai hình tượng trong hai thi phẩm mang những vẻ đẹp khác nhau nhưng họ đều là đại diện cho phẩm chất, khí phách của con người Việt Nam trong thời đại cách mạng.

II. Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Của Em Về Hình Ảnh Người Lính Trong Hai Bài Đồng Chí Và Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Bài mẫu 1

Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã từng trải và thấu hiểu những nỗi gian khổ, vất vả của người lính. Bàn tay các anh đã từng cầm súng chiến đấu và cũng đã từng viết nhiều bài thơ về họ – những người lính can trường, dũng cảm và có tình đồng đội cao. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ hình ảnh người lính có tinh thần và tâm hồn đẹp như thế đấy.

Năm 1948, bài thơ Đồng chí ra đời và nhanh chóng được nhiều người yêu thích. Trong những năm bom đạn hiểm nguy nơi chiến trường, hình ảnh về người lính là biểu tượng đẹp nhất của cuộc sống và đã đi vào thơ của Chính Hữu một cách tự nhiên và đẹp đẽ. Không hẹn mà nên, những người lính gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Theo tiếng gọi cứu quốc thiêng liêng, họ tạm xa con trâu, cái cày, cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Không hề quen nhau, nhưng ánh sáng lí tưởng của cách mạng đã soi vào trái tim họ, để họ trở nên thân nhau hơn và có ý chí chiến đấu cao hơn. Cũng giống như những anh lính trong bài Nhớ của Hồng Nguyên:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, thiếu thốn thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước. Họ sát cánh bên nhau cùng chiến đấu dũng cảm:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Có khác gì đâu cái tinh thần đồng đội thiêng liêng ấy trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, có lẽ trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy. Họ cầm súng, họ nhảy lên chiếc xe chuẩn bị lên đường và họ biết trước mắt họ là muôn vàn khó khăn nguy hiểm, vậy mà đâu đây vẫn có cái giọng điệu lạc quan, yêu đời, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm:

Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Họ vẫn có cái chí của người lính, họ không hề nguy hiểm, mặc những khó khăn của thời tiết của cuộc chiến, vẫn hướng trái tim về Tổ quốc:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Nếu trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, những người lính hiện lên với một tinh thần chiến đấu dũng cảm, tình đồng đội thiêng liêng, cao quý; thì ở trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính cao hơn. Họ lạc quan yêu đời hơn. Hình ảnh những người lính hiện lên thật trẻ trung, sôi nổi, yêu đời hơn.

Qua hai bài thơ, chúng ta càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của những người dân gửi gắm nơi họ. Với các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng.

cam nhan hinh anh nguoi linh

Bài mẫu 2

Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật từng sống, trải nghiệm và thấm thía đời sống của người lính trên chiến trường. Trên đôi bàn tay của hai nhà thơ không chỉ vững vàng những cây súng đánh giặc mà còn từng bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về người lính. Hai trong số những áng thơ ấy là Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng khắc họa hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam nhưng bên cạnh những điểm chung vốn dễ nhận thấy, ở hai bài thơ, mỗi bài lại có những nét đẹp riêng.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948, những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của “Đồng chí” là những người lính chống Pháp, họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó của những miền quê lam lũ:

“Quê hương anh nựớc mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”…

Còn Bài thơ vê tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ra đời năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang vào hồi ác liệt. Những người lính thời kì này còn rất trẻ. Họ phần lớn vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn còn phơi phới tuổi xuân. Đó là những con người:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính ở hai bài thơ. Nhận thức về chiến tranh của những người lính chống Pháp còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong “Đồng chí”, tình cảm thiêng liêng nhất được nhắc tới là tình đồng chí, đồng đội. Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mới thấy xuất hiện ý niệm về ý chí, tinh thần yêu nước:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cẩn trong xe có một trái tim”.

Sống giữa chiến trường với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ dại, con thơ. Người lính kháng Mĩ thì đã khác. Họ hiểu rằng kháng chiến là gian khổ và còn trường kì nữa. Vậy nên xe hàng cùng con đường ra mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.

Và điều khác nhau cơ bản giữa hai thi phẩm chính là bút pháp thơ của hai tác giả. Chính Hữu dùng bút pháp hiện thực – lãng mạn dựng lên hình ảnh những người lính thời kì đầu của cuộc kháng chiến với nhiều khó khăn thiếu thốn:

“Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày”

Cảm hứng lãng mạn được lắng đọng trong cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: “Đồng chí!” cùng những hình ảnh thơ giàu sức gợi “đẩu súng trăng treo”. Bài thơ “Bài thơ về tiểu dội xe không kính” lại được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn – hiện thực. Cái khó khăn thiếu thốn không bị lảng tránh:

“Không có kính rồi xe không có đèn,

Không có mui xe thùng xe có xước”.

Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự ngang tàng, tinh nghịch của những người lính trẻ lạc quan yêu đời:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”

“ừ thì gió bụi”

“ừ thì ướt áo”,…

Có thể nói, trong “Đồng chí” của Chính Hữu, nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người lính với tình đồng đội thiêng liêng chia sẻ với nhau những khó khăn, cực nhọc của một cuộc sống kháng chiến gian nan, thiếu thốn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật lại khắc họa tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời, yêu sống tinh nghịch và đầy ước mơ, lí tưởng của những người lính chống Mĩ.

Tuy có những sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối như vậy song những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của người lính quân đội nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.

Vì tiếng gọi của non sông tất cả đã bỏ lại phía sau những “bến nước gốc đa”, những con phố, căn nhà và cả những người thân yêu nhất. Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ thiếu thốn, thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Họ cũng sát cùng bên nhau, bên những người đồng đội để cùng chiến đấu dũng cảm. Nếu trong “Đồng chí” là:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hình ảnh đó đã trở nên thân quen:

“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, có lẽ trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy.

Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẻ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.

Bài mẫu 3

Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người lính cầm súng bảo vệ tổ quốc thực sự quan trọng, hình ảnh về anh bộ đội cụ hồ trong những năm đầu chống thực dân Pháp và chiến sĩ giải phóng quân miền Nam thời kỳ đánh Mỹ đã được phản ánh khá là rõ net cùng với những vẻ đẹp khác nhau và nó được thể hiện rõ qua hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào năm 1948, được in trong tập đầu súng trăng treo. Hình ảnh về người nông dân cầm súng đã được miêu tả ở trong bài thơ cùng với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thực sự bay bổng.

Đều là những người nông dân quanh năm lam lũ vơi ruộng đồng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện giã từ quê hương đi chiến đấu , trong họ rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản rằng chiến đấu là bảo vệ cho chính mình và quê hương mái ấm của mình.

Sự gian nan vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định được phẩm chất cao đẹp của những người áo vải. Từ bốn phương trời, không hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.

Họ quyết tâm dứt khoát ra đi là thế nhưng cũng không khỏi nhớ tới quê hương, gia đinh. Nỗi nhớ của các chiến sĩ thực sự đơn giản và cụ thể biết bao nhiêu : “ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh… ” đều là nơi gắn liền với nơi chôn rau cắt rốn chỗ miền quê nghèo.

Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”.

Đó là hình ảnh đơn sơ mộc mạc nhưng đồng thời là lời ca về tình đồng chí thiêng liêng giữa con người đang kề vai sát cánh cùng nhau bảo vệ tổ quốc, mang lại cuộc sống thanh bình cho toàn dân tộc.

Nếu như bài đồng chí nói về hình ảnh của người lính cụ Hồ ở trong kháng chiến chống Pháp thì bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và quyết liệt.

Người chiến sĩ lái xe ở trên đường Trường sơn vô cùng dung cảm, có sức chịu đựng gian khổ nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan .

Đối đầu với máy bay của giặc Mĩ thì các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động nhưng nhờ vào niềm tin tất thắng đấu tranh giải phóng Miền nam, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.

Mỗi sự gian nan vất vả đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh hết sức chân thực, giản dị nhưng lại để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Các chiến sĩ lái xe chấp nhận những khó khăn đó với thái độ vui vẻ, phớt lờ, có pha chút cá tính, ngang tàng.

Đoạn kết của bài thơ thật đẹp, chất hiện thực cũng nghiệp ngã và bay bổng cùng hòa quyện với nhau :

“Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,

Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy đều hướng vào Miền nam thân yêu bởi trong xe luôn có một trái tim đầy nhiệt huyết, đầy trách nhiệm. Hình ảnh trái tim ở trong câu thơ là hình ảnh hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa nhằm tôn vinh tầm vóc của những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao lên giá trị về nội dung cả nghệ thuật của bài thơ.

Bài thơ tiểu đội xe không kính là bài thơ mang đậm chất trữ tình cách mạng, tác giả đã khắc họa hình ảnh người lính bằng chính tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc.

Họ là những người tự nguyện dấn thân, vui vẻ trong gian khổ. Với ngôn ngữ giản dị giàu sức gợi cảm sáng tạo, nhịp thơ phong khoáng đã làm nên một cái cái, cái đẹp cho bài thơ.

Hai bài thơ của nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh và ở thời điểm khác nhau nhưng lại cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực sâu sắc nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong việc chiến tranh giữ nước.

cam nghi ve nguoi linh trong bai dong chi va bai tho ve tieu doi xe khong kinh

Bài mẫu 4

Đối tượng phản ánh của nền văn học Cách mạng 1945 -1975 chính là tổ quốc, là người lính chiến đấu, là nhân dân anh hùng. Hình tượng người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình tượng đẹp, đã góp phần tô đậm bức chân dung người lính Cụ Hồ với những phẩm chất anh hùng, đáng được ngợi ca.

Đề tài về người lính là đề tài truyền thống trong văn học, thể hiện vẻ đẹp mạnh mẽ, anh hùng của những con người gánh vác trách nhiệm bảo vệ đất nước, non sông.

Hình tượng người lính chống Pháp qua bài Đồng chí (Chính Hữu):

Đồng chí được viết đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Với bút pháp hiện thực và lãng mạn, bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người lính với những phẩm chất tốt đẹp, ghi dấu ấn những năm tháng gian khổ trong buổi đầu kháng chiến:

Họ là những người lính xuất thân từ ruộng đồng lam lũ. Rất nhanh chóng, họ gắn bó với nhau bởi mục đích, lí tưởng chung:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

Vì tổ quốc thiêng liêng và khát vọng cuộc sống hòa bình, tự do, họ sẵn sàng ra đi vì nghĩa lớn, bỏ lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Cuộc sống nơi rừng sâu nước độc, họ sẵn sàng cùng nhau chịu đựng, san sẻ những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Trong gian khó, họ đã vun đắp tình đồng chí đồng đội thắm thiết: chia sẻ, thấu hiểu tâm sự của nhau ; đoàn kết gắn bó

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Không chỉ thế, dù cuộc sống có khắc nghiệt đến đâu, kẻ thù có ngoan cố đến thế nào, họ vẫn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp: “Đầu súng trăng treo”.

Bài thơ Đồng chí đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.

Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được dùng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

Hình tượng người lính thời chống Mĩ qua bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt, Bài thơ về tiễu đội xe không kinh đã dựng lại một cách tự nhiên, chân thật cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng phơi phới lạc quan của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.

Tuy hiện thực chiến tranh vô cùng khốc liệt nhưng người lính lái xe vẫn luôn giữ tư thế hiên ngang, ung dung:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Xe không có kính khiến cho cả thế giới sinh động pho bay ra trước mắt họ:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái”

Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy, họ tràn đầy tinh thần lạc quan:

“Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Ở họ là tình cảm đồng chí đồng đội keo sơn, thắm thiết, bền chặt, cùng vào sinh ra tử, sống chết có nhau:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Ðã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Ở họ là tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Khi nào miền Nam còn bóng giặc là khi đó họ sẵn sàng lên đường. Không có gì có thể ngăn chuyến xe của họ đi tới:

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu). Chất thơ toát ra từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm.

Hai bài thơ đều khắc họa rất chân thật, sinh động và thành công hình tượng người lính : từ sự mộc mạc, chân chất trong suy nghĩ của những người lính xuất thân từ đồng ruộng trong Đồng chí cho đến cách sống lạc quan, trẻ trung, có phần ngang tàng của những người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Chính những điều này đã tạo nên nét riêng độc đáo về hình tượng, để lại dấu ấn trong lòng người đọc.

Bằng tài năng, những trải nghiệm và sự gắn bó hết mình với cuộc sống của người lính, hai nhà thơ – chiến sĩ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã có được tiếng nói chung trong cảm hứng ngợi ca về người lính. Vì thế, tuy ra đời trong hoàn cảnh, thời gian khác nhau, cả hai bài thơ đều làm bật lên những phẩm chất cao đẹp, quý báu của người lính Cụ Hồ : tinh thần dũng cảm; ý chí vượt qua khó khăn, gian khổ; lòng lạc quan yêu đời, tinh thần sẵn sàng chiến đáu hi sinh vì nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.

Hình tượng người lính trong hai bài thơ mang vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời đại cách mạng : bình dị nhưng chói sáng tinh thần yêu nước. Đây là hình tượng đẹp, khơi gợi ở người đọc những cảm xúc tự hào, cảm phục và biết ơn sau sắc đối với những người đã không tiếc xương máu của mình quyết tử cho tổ tổ quốc quyết sinh.

Bài mẫu 5

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ của dân tộc, đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã sáng tạo ra những áng thơ văn thấm đượm tinh thần dân tộc, đó là tình yêu quê hương đất nước, đó là tinh thần đấu tranh quật cường, là tình đồng đội đồng chí trong chiến tranh. Viết về mảng đề tài chiến tranh, các nhà văn, nhà thơ thường có khuynh hướng khắc họa lên những hình tượng người lính, cũng như tình cảm gắn bó, đoàn kết giữa họ như một cách lí giải đến sức mạnh phi thường của quân dân Việt Nam, cũng như những cơ sở, tiền đề cho thắng lợi sau này của Cách mạng Việt Nam, cùng viết về những người lính, cả Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã khắc họa lên hình tượng những người lính thật đẹp, thật đáng trân trọng.

Bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu và bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật là những bài thơ tiêu biểu trong phong trào thơ ca kháng chiến, đều hướng tới khắc họa hình tượng của những người lính trong chiến tranh. Trong những bức chân dung ấy, những người lính đều hiện lên với bao vẻ đẹp của phẩm chất, của lí tưởng. Họ đều là những người hùng của thời đại, là những con người vô danh nhưng lại là những người mang lại cuộc sống “hữu danh” cho chúng ta ngày hôm nay, họ đều là những người sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời cho nền độc lập, tự do cho dân tộc, đất nước Việt Nam.

Tuy có những điểm tương đồng trong lí tưởng, trong phẩm chất nhưng hình ảnh của những người lính trong thơ của Chính Hữu và trong thơ của Phạm Tiến Duật lại mang những vẻ đẹp tiêu biểu riêng cho từng thời đại, thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng sâu sắc riêng của mỗi nhà thơ. Trước hết ta đi tìm hiểu về hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ này được viết trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Chính Hữu không chỉ khắc họa hình tượng người lính mà còn từ những hình tượng độc lập ấy để làm nổi bật hơn tình cảm đồng đội, đồng chí của những người lính.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Những người lính vốn không hề có quan hệ gì trước đây, họ là những người nông dân nghèo đến từ khắp các miền quê nghèo cả nước, hoàn cảnh sống khó khăn lại nghe tiếng gọi của Tổ quốc, họ đã lên đường ra chiến trận cầm súng đấu tranh để bảo vệ cuộc sống của đất nước, của xóm làng, bảo vệ cho cuộc sống cho những người mà họ yêu thương.Vì vậy, từ những người xa lạ, chẳng hề quen biết, vì có cùng lí tưởng cứu nước mà họ gặp nhau, cùng nhau chiến đấu và trở thành những người đồng đội. Trong cuộc sống ác liệt, thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh, chiến trường những người lính đã cùng nhau xẻ chia những ngọt bùi, những gian khó trong cuộc sống. Từ đó, họ từ những người đồng đội dần trở nên gắn kết, trở thành những người đồng chí:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Không chỉ nhấn mạnh ở tình đồng chí khăng khít, gắn bó mà nhà thơ Chính Hữu còn làm nổi bật lên những phẩm chất đáng quý ở những người lính, đó là lí tưởng xả thân vì tổ quốc, sẵn sàng dâng hiến tất cả, không chỉ là cuộc đời, tuổi trẻ mà cả sự sống của chính mình, họ coi cái chết nhẹ tựa hồng mao, đi không hẹn ngày về, chính những lí tưởng cao đẹp đó càng làm cho hình tượng những người lính trở nên lộng lẫy, đáng quý hơn:

“Ruộng nương tôi gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Đầu súng trăng treo”

Nếu như bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào cuộc kháng chiến chống Pháp thì bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại được Phạm Tiến Duật sáng tác trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, nói đến thời gian sáng tác bởi yếu tố thời đại có sự chi phối rất lớn đến ngòi bút của nhà văn. Ở trong tác phẩm của mìn, nhà thơ Phạm Tiến Duật xây dựng lên hình ảnh của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn với tất cả những vẻ quyết tâm, lí tưởng dâng hiến hào hùng mà không kém phần đáng yêu bởi chính những nét trẻ trung, tinh thần lạc quan của họ trước những khó khăn, họ hồn nhiên kể về những chiếc xe không kính bởi bom đạn của chiến tranh:

“Không có kính không phải xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những chiếc xe cùng đồng hành với những người lính lái xe vượt qua không khí hủy diệt đầy dữ dội của bom đạn, những chiếc xe bị tàn phá nặng nề, những tấm kính vỡ đi khiến cho diện mạo của chúng cũng thật lạ lùng. Nhưng những hủy hoại về vật chất ấy có đáng kể chi, những người lính vẫn ung dung lái xe, làm nhiệm vụ chi viện của mình. Ngồi giữa buồng lái trống trải, những người lính vẫn mang những khát vọng đấu tranh, khát vọng hòa bình cho dân tộc, những khát vọng đó không được hoa mĩ miêu tả mà đơn thuần chỉ thể hiện qua ánh mắt “nhìn thẳng” của họ. Những người lính lái xe còn hiện lên với vẻ lạc quan, yêu đời lại có những nét hồn nhiên, đáng yêu:

“Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Vậy là những người lính không những không bị những khó khăn, không bị mưa bom bão đạn làm nhụt ý chí mà ngược lại họ còn chủ động chung sống với những khó khăn, thậm chí lấy đó làm niềm vui cho cuộc sống, hình ảnh những người lính hiện lên mới thật chân thực làm sao, bởi họ không chỉ có những phẩm chất kiêu bạc, ngạo nghễ của những người anh hùng mà còn tồn tại cả những nét đáng yêu, lạc quan, ung dung của những con người luôn tin tưởng vào sự tất thắng trong tương lai, tồn tại những phẩm chất rất con người. Lí tưởng của những người lính lái xe cũng làm ta cảm phục, ngưỡng mộ “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Cả “đồng chí” của Chính Hữu và bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đều xây dựng lên những bước tượng đài về những người lính, họ đều là những con người sống tình nghĩa cùng lòng yêu nước mãnh liệt, tinh thần đấu tranh quật cường mạnh mẽ.

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cũng là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học cách mạng Việt Nam, khắc họa vẻ đẹp của những người lính trong chiến tranh, vừa kiên cường vừa lãng mạn, các bạn có thể tham khảo bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng để hiểu rõ hơn.

Hình ảnh người lính là những hình ảnh đẹp nhất, đặc trưng nhất của dân tộc Việt Nam trong thời chiến, rất nhiều những áng thơ vẫn đã ca ngợi và khắc họa thành công, đầy cảm xúc những hình ảnh ấn tượng này, trong đó có bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính, chúng vừa có nét giống, vừa có những nét riêng khi cùng nói đến hình tượng người lính cụ Hồ.

Sending
User Review
0 (0 votes)

RELATED ARTICLES