Trong chương trình Ngữ Văn 11, với đề bài Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), các bạn học sinh sẽ làm như thế nào? Dưới đây là những bài văn tham khảo Trường Hải Tiến Giang sưu tầm được với đề bài Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao) để các bạn cùng tham khảo.
Bài tham khảo số 1
Nói về người nông dân trong xã hội cũ, không thể không nhắc tới tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Ông đã xây dựng nhân vật điển hình là Chí Phèo và Thị Nở để hình tượng hóa những người nông dân sống bần cùng, khổ cực dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Bằng lối viết chân thực và ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã mang đến cho người đọc một tác phẩm có giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc.
Giá trị hiện thực là những sự thật được phản ánh thông qua nhân vật và những sự kiện mà tác giả đề cập đến. Trong Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo với những bước ngoặt đầy nghiệt ngã và một thị Nở xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhưng chính thị lại là người tác động mạnh mẽ đến Chí Phèo. Chí Phèo bị bà ba dâm đãng của Bá Kiến lợi dụng, rồi bị đẩy vào tù. Chí ôm lòng hận thù theo mình suốt những năm tháng tù đày. Ra tù, Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, suốt ngày ôm chai rượu say xỉn. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Vô tình, Chí lại rơi vào tay Bá Kiến và làm tay sai đắc lực cho hắn, chuyên đi đâm thuê chém mướn cho hắn. Chí trở nên “nổi tiếng” khiến ai cũng khiếp sợ. Sau đêm vô tình gặp thị Nở bên gốc chuối, hai người đã ở với nhau như vợ chồng. Bát cháo của thị như một ân nghĩa cao đẹp mà cả đời Chí lần đầu tiên được nhận. Nhưng được vài ngày, thị nghe lời bà cô quay lại cự tuyệt Chí. Chí đau khổ và lại rơi vào tuyệt vọng một lần nữa. Trong cơn uất hận, Chí cầm dao đến nhà Bá Kiến giết chết hắn rồi tự tử.
Có lẽ nhà văn cũng rất buồn, rất đau khổ khi khái quát số phận nghiệt ngã của người nông dân qua nhân vật Chí Phèo. Là nhà văn, ông không thiếu những ngôn từ hoa mỹ. Nhưng với ông, văn chương chính là nơi để nói lên sự thật chứ không phải đánh bóng sự thật. Chí là một đứa trẻ mồ côi. Chí cũng rất hiền lành, chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm sống. Nhưng xã hội bất công và giai cấp gian ác đã không cho Chí được sống yên bình trong kiếp người nông dân. Chí bị đẩy vào tù. Lòng uất hận vì bị tù oan khiến Chí sửa đổi tính nết và cả ngoại hình. Chí ra tù với dáng dấp của một thằng “săng đá” và được Nam Cao cảm nhận bằng ba từ “trông gớm chết”. Chí xăm trổ, cái mặt câng câng, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng trắng hếu… Những từ ngữ ấy quá đủ cho ta thấy Chí hiện giờ mang dáng hình của một kẻ “đầu gấu”. Đã thế, Chí còn chìm trong cơn say triền miên. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Nhưng không một ai thèm đáp lại tiếng chửi của Chí. Chí chỉ mong ai đó nói lên một tiếng để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là người. Nhưng chỉ có tiếng lũ chó sủa inh ỏi và tiếng trẻ con nô đùa chạy theo trêu ghẹo Chí. có lẽ Chí bị loại bỏ khỏi xã hội làm người.
Hình ảnh của Chí lúc này là hình ảnh của những người nông dân bị bần cùng hóa như Chí. Họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tới bước đường cùng và đánh mất nhân cách của chính mình. Qua đó, Nam Cao muốn phơi bày tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào tình cảnh này. Nếu không bị đẩy vào tù, Chí vẫn là một con người rất lương thiện, hiền lành và chịu khó. Chí vẫn sống với vai trò là một kẻ đi làm thuê làm mướn để tự nuôi thân. Và nếu xã hội không thành kiến với những kẻ ở tù về, có lẽ Chí cũng không phải chìm đắm trong những cơn say, cũng không phải gào thét lên những lời chửi rủa chua ngoa để mong có ai đó đáp lại lời mình, để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là một con người thực sự. Nhưng bản chất xã hội lúc bấy giờ quá tàn ác, quá bất nhân. Chí đã trở thành con quỷ dữ, bọn chúng vẫn không tha.
Dù Chí được gặp thị Nở nhưng đó cũng chỉ là một tình huống để Nam Cao dẫn dắt bước chân Chí đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn để xóa tan đi phần nào sự phẫn nộ trong lòng. Thị Nở cũng là một nhân vật điển hình cho người nông dân. Dù thị dở hơi, xấu xí, xấu tới mức ma chê quỷ hờn nhưng đó lại là những nét thô sơ nhất của tự nhiên. Tạo hóa đã không ưu ái thị về vẻ bề ngoài nhưng lại đặt vào thị tấm lòng nhân hậu vô cùng lớn lao. Thị và Chí vô tình gặp nhau trong đêm tối. Sau cơn mê về xác thịt, tình yêu trong hai con người bần cùng nhất của xã hội đã nhen nhóm và trở thành ngọn lửa rực sáng. Chí được thị ban tặng cho bát cháo hành mà cả đời Chí cũng chẳng bao giờ dám mơ tới. Chí sống giữa cuộc đời nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo và cảm nhận được những hương vị của cuộc sống đời thường. Rất giản dị nhưng thật đẹp làm sao. Tiếng chèo thuyền, tiếng chim hót, tiếng mọi người đi chợ nói chuyện với nhau… Những âm thanh ấy ngày nào chẳng có, vậy mà hôm nay Chí mới để ý. Những tình tiết trong cuộc tình ngắn ngủi của Chí đã phản ánh một sự thật về bản chất của người nông dân. Dù họ đã phải trải qua bao cay đắng, nhưng sau cùng lòng lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ là có những lúc nó bị nhấn chìm bởi hoàn cảnh sống. Chính thị Nở đã làm cho bản chất của Chí sống lại. Nhưng cũng lại là thị đẩy Chí vào bước đường cùng thêm một lần nữa khi thị chối từ tình cảm của Chí.
Sự kiện này nói lên một sự thật cay đắng về thành kiến, về quan niệm của dân làng Vũ Đại đối với những kẻ đã bị tha hóa như Chí. Họ nhìn Chí bằng ánh mắt khinh thường và họ không còn coi Chí là người nữa. Dù trước đây thị đã yêu Chí, đã có cảm giảm thinh thích khi khắc đến hai chữ vợ chồng, nhưng vì thị chỉ là người đàn bà ế chồng và dở hơi. Hơn nữa thị lại bị người bà cô của mình quán xuyến. Sự thật đau đớn khi bị người yêu cự tuyệt khiến Chí rơi vào đau khổ tột cùng. Những tưởng cuộc đời từ nay sẽ được yên ấm nhưng bi kịch lại đến. Chút hi vọng mong manh cuối cùng của Chí đã nhanh chóng bị dập tắt bởi thành kiến của xã hội. Lúc này Chí đã quyết định đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn rồi tự kết liễu cuộc đời mình.
Bá Kiến và cả gia đình hắn là đại diện cho tầng lớp thống trị tàn ác, bất nhân. Chính bọn chúng đã lợi dụng những người nông dân lương thiện như Chí, biến họ trở thành con quỷ dữ và không còn cơ hội được quay trở lại làm người nữa, khiến họ phải đi vào ngõ cụt và tận cùng là cái chết. Nhưng một kẻ liều lĩnh và đã trải qua quá nhiều biến cố như Chí, cái chết không còn là nỗi sợ hãi nữa. Chí chết nhưng trước khi chết, Chí muốn kéo theo cả kẻ đã làm mình ra nông nỗi này.
Còn thị, dù thị dở hơi, nhưng khi Chí chết thị vẫn đủ tỉnh táo để nhìn xuống bụng và nghĩ đến một cái lò gạch bỏ hoang. Nam Cao không viết tiếp nhưng người đọc vẫn hiểu ý định của thị. Và đứa con trong bụng thị sẽ là một Chí Phèo con. Cuộc đời người nông dân vẫn còn nhiều người phải khổ. Chí Phèo chết chưa phải là đã hết. Bá Kiến chết cũng vẫn còn Lý Cường. Thậm chí hắn còn lạnh lùng và ác độc hơn Bá Kiến. Quá dễ dàng để Nam Cao viết lên cái kết có hậu nhưng ông trân trọng sự thật, và ông cũng muốn phơi bày sự thật về xã hội đương thời để người đọc thấy rằng cuộc sống người nông dân rất khổ cực. Họ vừa phải đương đầu với cuộc sống mưu sinh, vừa phải gồng mình lên gìn giữ lấy nhân phẩm của mình. Nhiều người đã gục ngã trước hoàn cảnh, lâm vào con đường tội lỗi và bị tha hóa nhân cách như Chí.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và những lời văn chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn đã bày vẽ lại cuộc sống thực tế của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Đồng thời ông cũng vạch tội bọn thực dân phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người nông dân vào cảnh sống lầm than. Chúng không những bóc lột tiền bạc, sức lao động của dân nghèo mà còn trà đạp lên tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, biến họ thành những con quỷ dữ giữa cuộc đời.
Bài tham khảo số 1
Bài tham khảo số 1
Bài tham khảo số 2
“Mỗi tác phẩm văn học là kết quả được nhào nặn từ đời sống”, nói như vậy quả thật không sai. Nếu tác phẩm văn học chỉ là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm hứng đến với đọc giả, văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại thông qua các tác phẩm của mình, đồng thời tìm ra cho mình một lối đi riêng khác hẳn với những nhà văn cùng thời đầu. Đọc tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó. Và tác phẩm cũng đã để lại giá trị hiện thực sâu sắc, lên án những thế lực chỉ biết sống dựa vào sức lao động của người khác.
“Mỗi tác phẩm văn học là kết quả được nhào nặn từ đời sống”, nói như vậy quả thật không sai. Nếu tác phẩm văn học chỉ là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm hứng đến với đọc giả, văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại thông qua các tác phẩm của mình, đồng thời tìm ra cho mình một lối đi riêng khác hẳn với những nhà văn cùng thời đầu. Đọc tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó. Và tác phẩm cũng đã để lại giá trị hiện thực sâu sắc, lên án những thế lực chỉ biết sống dựa vào sức lao động của người khác.
Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tác mà hiện thực đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Cùng viết về đề tài người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay Nam Cao đều phản ánh sâu sắc và chân thật tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường bị bần cùng hóa. Xã hội của văn Nam Cao trong Chí Phèo là sự thu nhỏ ở làng quê – một không gian tù túng, ngột ngạt mà bọn phong kiến có thể đẩy con người vào cảnh cùng đường phải bán nhân phẩm, nhân cách của mình, bán đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Khác với Ngô Tất Tố hay Nguyễn Công Hoan chỉ tập trung vào nỗi khổ tột cùng về vật chất của người nông dân thì với Chí Phèo – người nông dân còn đau đớn hơn với nỗi khổ về tinh thần.
Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, Nam Cao đã phản ánh những vấn đề cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Vạch ra mối quan hệ nội bộ của giai cấp thống trị, chia bè chia phái của bọn địa chủ cường hào. Chúng gồm nhiều cánh khác nhau, thường đối nghịch với nhau. Bọn chúng là một “quần ngư tranh thực”, mồi thì ngon mà bè nào cũng muốn tranh cho bằng được. Do đó chúng thường rình cơ hội để đè đầu cưỡi cổ lên nhau tranh giành miếng ăn. Song mặt khác, chúng du lại với nhau để cùng bóc lột những người nông dân nghèo, đẩy những người nông dân đến bước đường cùng miễn sao có được những thứ mà chúng muốn. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội – ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức – phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn. Ở xã hội thối nát ấy diễn ra rất nhiều mâu thuẫn, chèn ép lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa cái cánh địa chủ với nhau, mâu thuẫn giai cấp đối kháng, gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào thống trị với những người nông dân bị áp, bức bóc lột. Tiêu biểu là mâu thuẫn giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Bá Kiến là một tên địa chủ tàn ác, xảo quyệt, biết dùng những phương châm trị dân được đúc kết từ mấy đời ra để đối phó với người dân nghèo đói, những người bần cùng tận đáy xã hội. Lão đẩy những người dân vốn chất phác, lương thiện vào hố sâu của tội lỗi, thậm chí là tha hóa nhân hình lẫn nhân tính. Biến họ thành con quỷ dữ, bị xã hội loài người coi khinh, đẩy ra bên rìa của xã hội không cho hòa nhập và chặn tất cả những con đường trở về làm người của họ. Thường thì mâu thuẫn này vốn chưa bao giờ được dung hòa, phải giải quyết bằng những biện pháp quyết liệt, dữ dội. Tác giả rất căm ghét xã hội mục nát ấy đã đẩy con người ta xuống vực sâu không thể vực dậy được, chỉ có thể giải thoát bằng cái chết.
Hiện thực đời sống tăm tối, đau khổ của người nông dân, người lao động lương thiện được thể hiện tập trung qua số phận của nhân vật Chí Phèo. Có lẽ nhà văn cũng rất buồn, rất đau khổ khi khái quát số phận nghiệt ngã của người nông dân. Nhưng với ông, văn chương chính là nơi để nói lên sự thật chứ không phải đánh bóng sự thật. Cuộc đời Chí là một chuỗi ngày khổ đau, từ khi sinh ra Chí đã là một đứa trẻ mồ côi, khi lớn lên rất hiền lành, chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm sống. Nhưng xã hội bất công và giai cấp gian ác đã không cho Chí được sống yên bình trong kiếp người nông dân. Chí bị đẩy vào tù tội. Lòng uất hận vì bị tù oan khiến Chí sửa đổi tính nết và cả ngoại hình. Chí ra tù với dáng dấp của một thằng “săng đá” và được Nam Cao cảm nhận bằng ba từ “trông gớm chết”. Chí săm trổ, cái mặt cơng cơng, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng trắng hếu… Những từ ngữ ấy quá đủ cho ta thấy Chí hiện giờ mang dáng hình của một con quỷ dữ. Chí còn chìm trong những cơn say triền miên. Hắn đi tới đâu là chửi tới đó nhưng không một ai thèm đáp lại tiếng chửi của hắn, có lẽ hắn đã bị loại bỏ khỏi xã hội làm người.
Hình ảnh của Chí lúc này là hình ảnh của những người nông dân bị bần cùng hóa sống trong xã hội đó. Họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tới bước đường cùng và đánh mất nhân cách của chính mình. Qua đó, Nam Cao muốn phơi bày tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào tình cảnh này. Nếu như không bị đẩy vào tù, có lẽ Chí vẫn là một con người rất lương thiện, hiền lành và chịu khó. Chí vẫn sống với vai trò là một kẻ đi làm thuê làm mướn để tự nuôi thân. Và nếu xã hội không thành kiến với những kẻ ở tù về, có lẽ Chí cũng không phải chìm đắm trong những cơn say, cũng không phải gào thét lên những lời chửi rủa chua ngoa để mong có ai đó đáp lại lời mình, để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là một con người thực sự. Nhưng bản chất xã hội lúc bấy giờ quá tàn ác, quá bất nhân.
Giữa lúc cả làng Vũ Đại xem Chí như quỷ dữ, đẩy Chí ra bên lề của xã hội thì một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở đáy sâu của sự tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống thường ngày mà bấy lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí không biết đến. Nó vang động sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết, làm Chí nhớ đến ước mơ nho nhỏ ngày xưa và Chí thèm khát được trở về làm người lương thiện. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến hắn ngạc nhiên bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương cháo hành – hương vị tình yêu thương chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Chính Thị Nở đã làm cho bản chất của Chí sống lại. Nhưng cũng chính Thị Nở lại đẩy Chí vào bước đường cùng thêm một lần nữa khi chối từ tình cảm của Chí. Và cuối cùng Chí tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến và cũng giải thoát cho chính mình. Qua đó ta thấy được, Chí Phèo đã khái quát được hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ: có áp bức, có đấu tranh, tự đấu tranh và rồi dẫn đến kết cục bi thảm.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và những lời văn chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn Nam Cao đã vẽ lại cuộc sống thực tế của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Đồng thời ông cũng vạch ra tội ác của bọn thực dân phong kiến tàn nhẫn đã đẩy người nông dân vào cảnh sống lầm than. Chúng không những bóc lột tiền bạc, sức lao động của dân nghèo mà còn chà đạp lên tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, biến họ thành những con quỷ dữ giữa cuộc đời.
Bài tham khảo số 2
Bài tham khảo số 2
Bài tham khảo số 3
Tác phẩm Chí Phèo khép lại ở trang cuối cùng với một cảnh tượng đầy hãi hùng hai xác chết của hai con người – sinh vật. Cả hai đều làm người nhưng không phải là người: Bá Kiến và Chí Phèo. Máu me loang lổ, lênh láng khắp hai cái xác khiến chúng ta giật mình tự hỏi và hỏi Nam Cao: Đâu là hiện thực?
Toàn truyện Chí Phèo là một sức căng. Nam Cao đã đưa người đọc lạc vào cung bậc khác nhau của những sự căng thẳng về thần kinh bởi những câu chửi choang choang của Chí, bởi những cơn nốc rượu như nước, bởi những lần rạch mặt ăn vạ ghê rợn. Tưởng thế đã là đáng nhớ lắm, Nam Cao còn bất ngờ đưa tay, lia ngòi bút một lần cuối để kết thúc bản nhạc của mình, cả trang sách như rung lên khi Chí vung dao chém vào người Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan… ra đời, mấy ai còn có thể tưởng tượng tới một cảnh đời nào bần cùng hơn, bế tắc hơn, tủi cực hơn thế. Tưởng như cuộc sống chị Dậu và anh Pha đã là tột cùng của nỗi khổ đau ở đời. Nhưng cùng hơn cả những con người bần cùng đó, vẫn có Chí Phèo đã bước ra từ trang sách của Nam Cao, là hiện thân đầy đủ của “những gì là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chị Dậu, anh Pha dù có khổ mấy vẫn được công nhận là người. Còn Chí, con người hiền lành, chất phác qua lần vào tù ra tội đã bán cả nhân tính, nhân hình để trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Thoát được cửa tù con, Chí Phèo lại ra vào cửa tù lớn và lần này thì mãi mãi, Chí bị khóa chặt trong cuộc đời thú vật mà chế độ “ban” cho. Từng ấy bất hạnh đáng được để cho nhân vật nổi loạn lắm, nhưng ngòi bút Nam Cao tỉnh táo và sắc sảo, đủ điều kiện cùng nhân vật đi đến cuối truyện. Mọi cái được nâng lên với mức độ cao hơn khi Chí Phèo với ý định đến nhà thị Nở, quen chân thuận đường lại đến nhà Bá Kiến; vô tình một cách có ý thức, Nam Cao cho nhân vật của mình lại đi lệch đường, nhưng đúng hướng, đúng cái đích mà Nam Cao vạch ra cho nhân vật của mình. Cái chết của Bá Kiến đầy bất ngờ, không ai nghĩ rằng con cáo già như Bá Kiến lại có thể chết nhanh gọn đến thế. Với Chí Phèo thì không có gì là không thể bởi sự liều lĩnh của hắn đã được tôi luyện từ lâu rồi trong xã hội cũ. Nam Cao luôn đi tìm nhân phẩm và tình thương yêu chân thật ở những người lao động cùng khổ, bị giày xéo và khinh bỉ. Đây cũng là vấn đề “đôi mắt” mà Nam Cao luôn hướng tới, là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.
“Trong mảng sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn đề” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất (Nguyễn Hoành Khung). Nam Cao tỏ ra là một cây bút sắc sảo với cái nhìn tinh tế, nhạy cảm trên bình diện xung đột giai cấp. Với Bá Kiến, Nam Cao chứng tỏ mình hiểu rất sâu xa bản chất của giai cấp phong kiến địa chủ. Với Chí Phèo, Nam Cao cũng chứng tỏ một tâm hồn biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa khơi để tìm ra một điển hình nhất của một hạng người cùng hơn cả dân cùng, chúng ta quen gọi đó là hình tượng nhân vật “lưu manh hóa”. Qua cách xây dựng những xung đột, mâu thuẫn của truyện. Nam Cao đã chứng tỏ một cảnh quan hiện thực hết sức rõ ràng, mãnh liệt. Ông thấy rõ ràng mối xung đột, mâu thuẫn giai cấp ở nông dân – địa chủ, nhất là nông dân đã chín muồi đã đến mức sâu sắc và không gì có thể xoa dịu. Nam Cao xây dựng mối quan hệ Bá Kiến – Chí Phèo trở nên hết sức gay gắt, mối tình dang dở với Thị Nở cũng là cách đổ thêm dầu vào lửa, biến cơn say, cơn buồn, cơn thất tình ở Chí Phèo thành lòng căm hận, tức tối, quyết đến nhà Thị Nở để trả thù. Quy luật lại không phải thế, quy luật đã kéo Chí đi nhưng là đến nhà Bá Kiến, chứ không phải ai khác. Kẻ đáng giết Bá Kiến. Với cái kết thúc bất ngờ dữ dội của thiên truyện ngắn, Nam Cao đã cho chúng ta thấy kết quả tất yếu sẽ xảy ra, điều đó không thể tránh khỏi. Giai cấp thống trị có thể khôn ngoan, giảo quyệt, mánh khóe, có thể đàn áp, làm lu mờ cả ý thức của người dân thì vẫn còn âm ỉ trong người dân ngọn lửa của lòng căm thù, căm ghét những kẻ bóc lột mình, ở Chí, cho dù tâm trí tê liệt, mọi cái bị “xóa sổ” trong trí nhớ của Chí thì tận trong cơn say, hắn vẫn như mơ màng nhận thấy một điều gì. Đoạn Chí quyết đến nhà Thị Nở để trả thù là biểu hiện bề ngoài, trong tiềm thức chỉ có Bá Kiến, sâu xa nhất trong quá khứ là Bá Kiến, Thị Nở chỉ là hiện tại. Mọi bức bối, uất ức dồn đến lâu ngày, càng dồn nén xuống thì ắt sẽ có ngày bùng nổ. Sự chịu đựng quá tải đã làm bừng tỉnh cơn dại trong Chí, anh quyết đi trả thù đời, đi “đòi nợ”. Ngòi bút của Nam Cao phải vững vàng lắm trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo thì mới có những trang viết rành rọt, tỉnh táo đến như vậy. Ông tin rằng trong huyết quản của Chí Phèo vẫn chưa cạn hết dòng máu của người nông dân lao động nên đã cho Chí xách dao đến nhà Bá Kiến, không đòi rượu, đòi tiền mà để đòi lại bộ mặt và tâm hồn mình đã bị phá nát, tước đoạt. Chỉ có lòng nhân đạo cao cả mới có thể nhìn thấy được ở con người quái dị như Chí Phèo một lòng thiết tha ham sống. Chỉ có Nam Cao mới thấu hiểu sự khao khát được trở lại làm người của Chí, đó là khi ông miêu tả “tiếng đời thường” thông qua sự cảm thụ của Chí. Năm ngày liền Chí hiền khô, thậm chí không uống một ngụm rượu. Đó là nhờ có Thị Nở đà mang tình yêu thương đến với Chí, mặc dù đó là thứ tình cảm dở hơi, không ý thức. Chi tiết bát cháo hành nóng hổi đã sưởi ấm lại con người Chí, kéo hắn về với cuộc đời. Khốn nạn thay, xã hội phong kiến đương thời cũng không để Chí yên thân mà hưởng niềm hạnh phúc nhỏ bé đó, bà cô của Thị Nở cũng chính là một thứ tool của xã hội đầy định kiến, ngăn cản Thị Nở trở lại với Chí. Khi bàn tay nhân đạo đã rụt lại, Chí Phèo lại trở về với con người hàng ngày của mình: say rượu, hung dữ. Nhưng chính quãng thời gian ít ỏi được sống bên Thị Nở đã tác động vào suy nghĩ của Chí. Lúc này, anh có ý thức sống cho chính mình hơn, đòi hỏi cho mình một lẽ sống, một sự công bằng đã bị tước đoạt. Giết chết Bá Kiến mới chỉ đạt được một nửa công việc, Chí Phèo hoàn thành nốt “công việc” còn lại bằng cách tự giết luôn cả mình. Nếu còn sống, Chí Phèo vẫn tiếp tục cuộc đời quỷ dữ của mình, vẫn phải đối chọi với con trai của Bá Kiến. Ta còn nhớ Nam Cao đã cho một nhân vật của mình ăn bả chó tự tử, đó là lão Hạc. Nay ta lại thấy Chí Phèo tự kết liễu mình. Phải chăng, với suy nghĩ riêng của Nam Cao, những con người quá khốn khổ, quá cùng quẫn thì chỉ có cái chết mới giải thoát được tất cả? Chí Phèo phải chết mới chấm dứt cuộc đời nhục nhã của mình để hóa kiếp sang một con người khác tốt đẹp hơn?
Chí Phèo chỉ ao ước trở lại làm một người lao động bình thường với mối tình Thị Nở, nhưng không được. Cách xây dựng nhân vật của Nam Cao thật độc đáo. Chí Phèo vừa là một gã mất trí, tool nguy hiểm trong tay bọn thống trị, lại vừa là nô lệ thức tỉnh, trở thành con người có đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khái quát sâu sắc vượt quá mức thường ngày, vượt quá tầm khôn ngoan lọc lõi của Bá Kiến: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?” Nỗi ray rứt rất con người, đầy nhân văn này lại được thốt ra từ miệng một kẻ chuyên uống rượu say mềm. Bá Kiến cũng bất ngờ, mất cảnh giác nên Chí đã dễ dàng sát hại. Diễn biến rất hợp lí, từng chi tiết nhỏ đều rất tôn trọng “chủ nghĩa hiện thực”. Chí Phèo ngay sau đó cũng tự kết liễu đời mình bởi trong giây phút điên cuồng đó, hắn đã tỉnh táo hơn bao giờ hết và ý thức được mọi điều mình làm. Không tự giết, Chí Phèo cũng sẽ phải chết vì con trai Bá Kiến còn đó, vì bao đối tượng khác luôn lăm le muốn xóa sổ hắn. Giết được Bá Kiến, Chí Phèo như lấy lại được thanh danh cho mình, như đã hài lòng về bản thân, cảm thấy không cần phải sống để đòi nợ ai nữa. Hắn không chết cũng sẽ không còn ai cho hắn tiền uống rượu, không còn Bá Kiến cho hắn rạch mặt ăn vạ nên hắn chết. Có những cái chết bế tắc, nhưng cái chết của Chí Phèo lại là bước mở đầu cho sự sống, cho sự tháo cũi sổ lồng, giải thoát cho chính mình. Viết nên những trang sách ấy, Nam Cao vẫn chưa ý thức đầy đủ về sức mạnh vĩ đại của quần chúng lao động, sức công phá mãnh liệt của những kiếp người nô lệ, nhưng ông đã lờ mờ nhận thấy một sức sống tiềm tàng trong con người lao động bị áp bức. Đằng sau sự đàm chém hài hùng kia có cái gì như là sự vật vã tuyệt vọng đang cố vùng vẫy để thoát khỏi nó. Bi kịch của Chí không phải là sự nghèo hèn vật chất, thứ vị xã hội mà ở chỗ là người mà không được xã hội loài người dung nạp. Sống trong sự thờ ơ lẫn sợ hãi, xa lánh của mọi người càng làm cho Chí cùng thêm, liều thêm cho đến khi ý thức được điều đó thì hắn chỉ còn biết tìm đến cái chết.
Thực ra, trong chuỗi ngày dài trong đời hắn, hắn không hề biết mình đang sống, hắn chưa biết đến cái chết nghĩa là hắn chưa sống. Kết thúc truyện hắn đã tìm đến cái chết, cũng là lúc hắn nhận biết được cuộc sống thú vật của hắn. Còn Bá Kiến, sẽ còn Chí Phèo. Hết Bá Kiến, Chí Phèo cũng không tồn tại. Ở đây ta còn thấy một sự thâm thúy sâu xa của Nam Cao khi cho cả hai nhân vật tồn tại song song và có vai trò tác động lẫn nhau. Nếu không phải là Bá Kiến thì anh Chí ngày xưa chưa hẳn đã là Chí Phèo bây giờ. Bởi ở Bá Kiến là cả sự khôn ngoan lọc lừa, một kẻ biết ném đá giấu tay.
Nam Cao có lần đã nói: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than. Đó là lời của Điền (Trăng sáng), nhưng cũng là nỗi băn khoăn trong cuộc đời cầm bút của Nam Cao. Ngòi bút của ông hướng về người dân lao động nghèo khổ nhiều khi là những con người xấu xí như Chí Phèo, Thị Nở… Ông cố tình đưa cái khuôn mặt rách nát của Chí hay khuôn mặt kì dị của Thị vào trang viết bởi chỉ với nhân vật như thế, Nam Cao mới tố cáo hết sự tàn bạo của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ tột cùng của người nô lệ.
Trong Chí Phèo,Nam Cao đã tập trung xoáy sâu và làm nổi bật lên mâu thuẫn xã hội cơ bản ở nông thôn: đó là mâu thuẫn cực độ giữa người dân lao động bị I áp bức và bọn thống trị, địa chủ chuyên bóc lột. Kết cục bi thảm của truyện chính là kết quả tất yếu, không tránh khỏi mâu thuẫn đó. Nam Cao rất tôn trọng bút pháp hiện thực, vì vậy, khi viết ông không ngần ngại đưa vào truyện những chi tiết trần tục như việc tả Chí Phèo và Thị Nở ở đêm trăng. Cả hai con người gàn dở ấy cũng khao khát yêu đương, cũng có những ham muốn rất con người, nếu ngòi bút Nam Cao không chân thực thì chúng ta không thể thấy hết điều đó. Càng hiện thực, càng cho chúng ta thấy một Nam Cao đầy lòng vị tha, nhân ái, một tấm lòng nhân đạo cao cả.
Bi kịch ở cuối truyện là sự bứt phá, tự giải phóng cho nhân vật. Nam Cao lồng cả tình cảm của mình vào để gián tiếp bộc lộ lòng căm thù sâu sắc của mình đối với chế độ và sự yêu thương, trân trọng với giai cấp nông dân. Bá Kiến chết đi là mong muốn của sự kết thúc một chế độ đen tối bất công. Chí Phèo chết đi là cách duy nhất Nam Cao hóa kiếp cho loài người đau khổ, chỉ có cái chết mới giải thoát được cho họ. Cái nhìn của Nam Cao tuy hơi cực đoan, bế tắc song nó hợp với logic của truyện ngắn. Khi cái xấu xa đã ăn sâu vào thành tính cách, phẩm chất của con người thì không còn cách nào sửa đổi được, chỉ chết đi mới rũ bỏ được tất cả. Tìm đến cái chết, nghĩa là Chí Phèo đang tìm kiếm sự sống, một cuộc sống thực sự.
Truyện ngắn Chí Phèo đã đánh dấu một sự nghiệp sáng tác lớn của Nam Cao. Ông hiểu rằng phải là hiện thực, văn học mới có ý nghĩa tố cáo sâu sắc chế độ, chỉ có hiện thực mới nhìn thấy hết nỗi đau khổ, dằn vặt trong người dân lao động, và chỉ có hiện thực mới làm nổi bật tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Hành động quyết liệt bất ngờ của Chí Phèo trong truyện là một diễn biến hợp lí, thể hiện sự “tháo cũi xổ lồng” của người dân. Tuy nhiên Nam Cao mới chỉ nhìn thấy sự phản kháng ở một con người chứ chưa có ý thức về sức mạnh tiềm tàng trong quần chúng. Nam Cao mới nhìn vào Bá Kiến chứ chưa nhìn vào một hệ thống giai cấp thống trị ở khắp đất nước Việt Nam thuộc địa. Qua truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã chứng tỏ là một cây viết hiện thực sắc sảo, là “thư kí trung thành của thời đại”, một tấm lòng nhân ái, rộng mở bị ám ảnh bởi số phận đau khổ của kiếp người nô lệ. Chính mảnh đất nơi ông sinh ra đã tác động, ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp sáng tác của ông.
Bài tham khảo số 3
Bài tham khảo số 3
Bài tham khảo số 4
Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống tôn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đã miêu tả trung thực những quan hệ thực (Ăng-ghen). Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.
Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông dân Việt Nam đương thời.
Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội – ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức – phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.
Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến – lão cường hào cáo già với giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: thói ghen tuông, Bá Kiến nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân… Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết, không sợ đi tù.
Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi… mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thía nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nông thôn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn – hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.
Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.
Bài tham khảo số 4
Bài tham khảo số 4
Bài tham khảo số 5
Trong nền văn học hiện thực nước ta ngoài những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…thì cái tên Nam Cao được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao về những tác phẩm tố cáo hiện thực của nhà văn này. Với những quan điểm tích cực về văn chương Nam Cao đã cho ra đời những tác phẩm “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hẳn ai cũng biết đến tác phẩm nổi tiếng của ông đó chính là Chí Phèo, vẫn là một đề tài về người nông dân trong xã hội phong kiến thế nhưng Nam Cao không đi khám phá nhân vật về cuộc sống nghèo khổ phải bán chó bán con mà nhà văn nói về những số phận nông dân bị tước đoạt quyền làm người. Đặc biệt qua truyện ngắn này ta thấy được giá trị hiện thực của tác phẩm.
Vậy giá trị hiện thực là gì? Có thể tạm định nghĩa là giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Chính vì thế nhà văn hiện thực Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo để từ một con số không tròn trĩnh để từ đó ta thấy được những bi kịch mà xã hội phong kiến thực dân đã gây nên cho một người dân lương thiện hiền lành.
Giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó là phản ánh quy luật ở nước ta thời Pháp thuộc, người dân lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh hóa bần cùng hóa, thành một con quỷ dữ và không thể quay trở lại làm người được nữa. Tất cả những điều nói trên được thể hiện rõ qua cuộc đời đầy những đau thương bi kịch của nhân vật Chí Phèo.
Cách mở đầu câu chuyện của tác giả cũng góp phần thể hiện được hiện thực cuộc sống những năm ấy. Chí Phèo xuất hiện với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa chửi. Đó là cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Thế nhưng nào có ai tiếp chuyện Chí, họ không thèm chấp Chí Phèo khi chửi cả làng Vũ Đại.Cứ say là Chí chửi “bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, sau đó hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình lên hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng làng Vũ Đại ai cũng nghĩ chắc nó chừa mình ra”. Cứ thế chỉ một thằng say rượu với ba con chó cũng làm inh ỏi cả làng nước lên rồi. Câu văn chua chát ấy giúp cho chúng ta thấy được Chí vốn là một con người nhưng lại được so ví đồng loại với ba con chó. Những điều Chí nói không ai thèm đáp lại. Người ta đâu coi Chí là con người.
Ngay từ nhỏ Chí sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa bé mới đỏ hỏn vậy mà đã bị mẹ bỏ rơi. Chí chỉ được bọc trong một cái khăn, người tím ngắt lại và bỏ ở chỗ lò gạch cũ. Dẫu có may mắn được một anh nông dân cứu về đem lại sự sống cho Chí nhưng cuộc đời Chí lại chẳng một chút nào tươi sáng. Sống ở mảnh đất nghèo khó lại “quần ngư tranh thực” Chí được một người nhận nuôi nhưng vì nghèo mà Chí cũng phải đi ở đợ cho nhà người ta. Chí quả là một con người bất hạnh.
Không những tuổi thơ thiếu tình thương cha mẹ đến khi lớn lên anh cũng vẫn không thoát khỏi bi kịch. Chí lớn lên thành một chàng trai khỏe mạnh hiền lành. Chí ở đợ cho nhà Bá Kiến thế nhưng bà ba nhà Bá Kiến lại cứ thích Chí đấm bóp cho. Khổ một nỗi là Bà cứ bắt bóp lên cao cao mãi. Chí chỉ thấy nhục chứ chẳng thấy yêu thương gì. Thế rồi Bá Kiến phát hiện và đã đẩy anh chàng lương thiện vào nhà tù thực dân. Thế là quãng cuộc đời nghèo khổ nhưng bình yên của Chí cứ thế mà kết thúc một cách nhanh chóng.
Chí đi tù ra cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn chí. Anh không còn là một chàng thanh niên khỏe mạnh lương thiện nữa mà trở thành một con quỷ dữ. Người dân cứ thấy anh ở đâu là tránh xa. Nam Cao đã thành công khi miêu tả ngoại hình Chí Phèo ở tù ra. Nào là cái răng trắng hếu, cái đầu cạo trọc lóc, cái mặt thì cong cong lên, hai mắt gườm. Trang phục mà Chí mặc trên người là chiếc quần nái đen và cái áo tây vàng.
Không những thế hình ảnh ông tướng cầm chùy còn được xăm ở cánh tay hắn. Vậy là hắn trông chẳng còn vẻ gì là một người lương thiện nữa rồi. Từ đây cuộc đời Chí trải dài trên những cơn say, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, rạch mặt ăn vạ trong lúc say. Chí trở thành một tay sai đắc lực của Bá Kiến. Và kết cục thì Chí vẫn cứ không được làm người. cho đến khi chết thì cả làng Vũ Đại cũng không ai coi Chí là người cả. Đó phải chăng là bi kịch tinh thần đau đớn nhất mà một con người phải gánh chịu. Sống là kiếp con người mà cũng không được trọn kiếp con người.
Không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện bị tước quyền làm người nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến đã cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện. Xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ và tuyệt đối không cho Chí quay lại làm người. Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ dữ ấy chứ không thể nào trở lại làm người được.
Chí Phèo trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Nó không hấp dẫn bởi những lời hoa mĩ sáo rỗng, không cầu kì nhân vật mà chỉ với giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc Chí Phèo đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Quả thật nhà văn Nam Cao đã có công rất lớn trong việc phản ánh số phận người nông dân trong xã hội cũ.
Bài tham khảo số 5
Bài tham khảo số 5
Truyện ngắn Chí Phèo đã đánh dấu một sự nghiệp sáng tác lớn của Nam Cao. Ông hiểu rằng phải là hiện thực, văn học mới có ý nghĩa tố cáo sâu sắc chế độ, chỉ có hiện thực mới nhìn thấy hết nỗi đau khổ, dằn vặt trong người dân lao động, và chỉ có hiện thực mới làm nổi bật tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Trên đây là những bài văn tham khảo Trường Hải Tiến Giang sưu tầm được với đề bài Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao). Hi vọng bài viết giúp ích cho các bạn!