asd
Trang chủGiáo DụcLớp 9Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng...

Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác tuyển chọn 13 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc, thấy rõ những cảm xúc nghẹn ngào, xót thương vô hạn của nhà thơ khi rời lăng Bác.

Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác

Khổ cuối Viếng lăng Bác tuy ngắn gọn, nhưng đã chứa đựng biết bao cảm xúc, khát vọng của những người dân Việt Nam khác luôn hướng về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Trường Hải Tiến Giang để có thêm vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Đề bài: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương

  • Dàn ý phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác (2 mẫu)
  • Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn gọn
  • Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác hay nhất
  • Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác
  • Phân tích cảm xúc của nhà thơ qua khổ cuối Viếng lăng Bác
  • Phân tích cảm xúc của nhà thơ khi rời lăng Bác qua khổ thơ cuối
  • Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác
  • Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác chi tiết (5 mẫu)
  • Cảm nhận khổ cuối Viếng lăng Bác
  • Cảm nhận ý nghĩa khổ 4 bài thơ Viếng lăng Bác

Dàn ý phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

Dàn ý 1

1. Mở bài

  • Giới thiệu về khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác.

2. Thân bài

– Tâm trạng nghẹn ngào, cảm xúc trào dâng mãnh liệt khi nghĩ đến giây phút rời lăng Bác để trở về miền Nam.

  • Từ “thương” chứa đựng bao cảm xúc yêu thương, kính trọng, cả những xót xa, lưu luyến.
  • Cảm xúc nghẹn ngào, đầy lưu luyến của người con miền Nam trước giây phút chia xa.

– Nguyện ước chân thành, tha thiết của tác già:

  • Muốn trở thành con chim, đóa hoa, cây tre trung hiếu để mãi bên Bác.
  • Điệp từ “muốn làm” thể hiện khát khao chân thành, tha thiết của tác giả.
  • Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác.

–> Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.

3. Kết bài

  • Cảm nhận chung.

Dàn ý 2

 Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

I. Mở bài

– Giới thiệu nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại

– Nêu vấn đề nghị luận: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương

II. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát chung về bài thơ

Viếng Lăng Bác được nhà thơ Viễn Phương sáng tác năm 1976 khi ông được vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất và lăng Bác vừa được hoàn thành.

2. Phân tích nội dung khổ thơ cuối

– Niềm thương cảm lớn lao:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

+ Một tiếng “thương” của miền Nam là trọn vẹn tình cảm của người miền Nam đối với Bác.

+ Thương là yêu là kính yêu là quý trọng cả cuộc đời cao thượng vĩ đại của Bác đã dành hết cho dân cho nước cho sự nghiệp giải phóng dân tộc:

Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son

+ Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:

Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa

=> Câu thơ như bộc lộ rất chân thành nỗi xót thương vô hạn bị kèm nén cho tới phút chia tay và tuôn thành dòng lệ.

– Nguyện ước của tác giả:

+ Trong cảm xúc nghẹn ngào, tâm trạng lưu luyến ấy, nhà thơ như muốn được hoá thân để mãi mãi bên Người:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

+ Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc tới ba lần cùng với các hình ảnh liên tiếp con chim, đoá hoa, cây tre như để nói lên ước nguyện tha thiết của nhà thơ muốn là Bác yên lòng, muốn đền đáp công ơn trời biển của Người.

=> Nguyện ước của nhà thơ vừa chân thành, sâu sắc đó cũng chính là những cảm xúc của hàng triệu con người miền Nam trước khi rời lăng Bác sau những lần đến thăm Người.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận của bản thân về khổ thơ:

+ Khổ thơ thứ tư diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ. Muốn ở mãi bên lăng Bác, nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam, chỉ có cách gửi lòng mình bằng cách hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật ở bên lăng Bác để luôn được ở bên Người.

Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn gọn

Khổ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên lăng Bác:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cây tre khách thể đã hòa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.

Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác hay nhất

Viễn Phương là một cây bút có mặt sớm của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Ông có đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn chương của nước nhà với nhiều tác phẩm đặc sắc. Tiêu biểu phải kể đến bài thơ “Viếng lăng Bác”. Và khổ thơ cuối, đã bộc lộ chân thực tâm trạng người con khi phải nói lời tạm biệt cha:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Lúc này tác giả đang đứng trước lăng, vẫn đang bên Bác, nhưng có lẽ nỗi nhớ càng lớn thêm khi nghĩ đến việc ngày mai phải chia xa người cha vĩ đại của dân tộc. Vì biết phải rời xa Bác, nên nỗi buồn ngập tràn trong lòng thi nhân. Tác giả đã trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình qua cụm từ “thương trào nước mắt”. Nỗi niềm nhà thơ dành cho Bác không thể diễn tả thành lời, bùi ngùi mà rơi những giọt nước mắt. Đó là giọt nước mắt đau lòng của người con quá yêu và thương Bác. Tình cảm của tác giả quá lớn mà hóa thành những ước nguyện dẫu tưởng chừng phi lí: làm chim, làm hoa, làm cây tre:

“Muốn làm con chim hót quanh Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Bằng việc dùng điệp ngữ “muốn làm”, tác giả đã nhấn mạnh những khát khao chân thành của mình: mong làm chú chim trên bầu trời tự do để ngày ngày ca vang lời yêu Bác sâu đậm; mong được làm “bông hoa tỏa hương thơm” để làm say lòng người. Đặc biệt, chúng ta càng thấy thấm thía tấm lòng của tác giả qua một ao ước chân thành, giản dị: làm “cây tre trung hiếu”. Nhà thơ muốn nhập vào hàng tre xanh trước lăng để ngày ngày tỏa bóng mát. Không chỉ vậy, ước nguyện muốn làm cây tre còn thể hiện khát vọng được ở bên canh giấc ngủ ngàn thu cho Người, được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với vị cha già của dân tộc. Ước ao được làm “cây tre trung hiếu” ở cuối khổ thơ đã tạo nên một kết cấu tương ứng cho cả bài thơ. Hình ảnh cây tre với những đức tính tốt đẹp mở đầu và cũng kết thúc bài thơ một cách thật tự nhiên. Cây tre mang bao vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam muôn đời. Khổ thơ cuối khép lại lắng đọng thật nhiều cảm xúc của tác giả. Ước nguyện chân thành của Viễn Phương khiến ta nhớ đến lời thơ của Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.

Nếu Thanh Hải nguyện ước được làm một tiếng chim, một cành hoa để góp phần điểm tô cho vẻ đẹp của mùa xuân đất nước thì Viễn Phương lại muốn hóa thân vào cảnh vật để bên Bác suốt đời.

Với việc dùng phép tu từ điệp ngữ kết hợp cùng những hình ảnh thơ giàu sức biểu cảm, Viễn Phương đã cho người đọc cảm nhận được tình cảm chân thành, thiết tha dành cho Bác. Những ước nguyện chân thành đó dành không chỉ là tấm lòng của tác giả mà đó là của cả dân tộc Việt Nam dành cho vị cha già kính yêu muôn đời.

Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều những tác phẩm viết về Bác Hồ, có thể nói tới những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang viết về nhân cách và phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh:

Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Dân tộc Việt Nam luôn biết ơn, luôn kính trọng và luôn tự hào về vị cha già kính yêu đã dành cả cuộc đời mình cho non sông, đất nước, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và để tri ân tới những công lao to lớn của Người có rất nhiều những vần thơ đẹp. Một trong số đó phải kể tới bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương – bài thơ ghi lại cảm xúc của tác giả trong lần đầu tiên được từ miền Nam ra Hà Nội để đến thăm Bác Hồ. Đặc biệt, khổ thơ kết của bài thơ là những cảm xúc mãnh liệt nhất của tác giả được dâng trào, là những nỗi niềm lưu luyến khi phải xa Bác để trở về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Câu đầu tiên của khổ thơ, tác giả đã thể hiện một nỗi niềm xót thương, lưu luyến đến vô hạn khi mà sắp phải rời xa nơi đây:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Câu thơ nhơ một lời chào với Bác Hồ của tác giả, một lời tạm biệt thật giản dị nhưng đầy sâu lắng, thiết tha. Từ “trào” được tác giả dùng trong câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được những cảm xúc mãnh liệt, những sự lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa Bác Hồ. Tâm trạng ấy không phải chỉ của riêng tác giả mà là của mọi trái tim Việt Nam khi tới thăm lăng Bác.
Tiếp sau đó, nhà thơ đã thể hiện mong ước của mình được trở thành những sự vật ở bên lăng Bác.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Những mong ước của tác giả thật rất đỗi bình dị, ông chỉ mong được hoá thành những chú chim nhỏ để dâng tiếng hót vui quanh lăng, muốn trở thành một đoá hoa giữa vườn hoa muôn sắc để toả hương thơm ngát, muốn trở thành cây tre trung hiếu bên lăng để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với những hình ảnh, sự vật thân thuộc mà nhà thơ muốn hóa thành đã thể hiện những ước muốn đầy mãnh liệt, thiết tha của tác giả. Những ước muốn ấy không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là mong ước của tất cả nhân dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.

Đặc biệt, ước mong được trở thành cây tre bên cạnh lăng để canh giữ giấc ngủ của Bác là một ước nguyện thật đặc biệt. Cây tre trung hiếu ấy là một hình ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu, sự biết ơn vô hạn của toàn thể nhân dân Việt Nam với Bác. Ước mong ấy cũng như một lời khẳng định rằng nhà thơ cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ mãi đi theo con đường cách mạng của Người để bảo vệ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở câu thơ cuối cùng cũng tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng cho bài thơ khi mở đầu là “hàng tre bát ngát” và kết thúc là “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh ấy đã tạo nên những ấn tượng sâu sắc cho người đọc cũng như làm cho dòng cảm xúc của tác giả trở nên trọn vẹn.

Khổ thơ cuối của bài thơ “Viếng lăng Bác” đã diễn tả nỗi niềm riêng của tác giả nhưng những nỗi niềm ấy lại mang tình cảm khái quát chung. Tác giả đã diễn tả khát vọng của bản thân cũng như khát vọng của những người dân Việt Nam khác luôn hướng về Người – về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.

Phân tích cảm xúc của nhà thơ qua khổ cuối Viếng lăng Bác

Trong bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện cảm xúc lưu luyến, bịn rịn đối với Bác – vị chủ tịch vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Thật vậy, nếu như những dòng thơ trên là nỗi đau buồn, thương nhớ của 1 người con miền Nam đối với Hồ Chủ tịch vĩ đại thì khổ thơ cuối đã thể hiện sự lưu luyến ko muốn rời xa đối với Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Cụm từ “thương trào nước mắt” thể hiện một nỗi buồn thương mãi mãi khôn nguôi trong lòng tác giả đối với sự ra đi của Bác và việc sắp phải xa Bác. Khi sắp phải trở về miền Nam, tâm trạng của nhà thơ như tâm trạng của 1 người con sắp phải xa cha, đau buồn vô cùng. Tiếp theo, tác giả dùng điệp ngữ “muốn làm” để thể hiện khát vọng muốn được hóa thân vào những thứ bé nhỏ để được mãi ở bên Bác. Những hình ảnh bình dị như “con chim hót, đóa hoa tỏa hương” thể hiện được sự khát khao cống hiến, muốn được dâng hiến cho Bác. Chao ôi, đây là một ước mơ vô cùng bình dị mà lớn lao của tác giả. Nhưng quan trọng hơn, tác giả muốn được làm “cây tre trung hiếu”. Cây tre trung hiếu có lẽ là hình ảnh của người dân Việt Nam với những phẩm chất bình dị, kiên cường, trung hiếu.

có lẽ, tác giả khao khát được hóa thân vào những thứ bình dị để được mãi mãi ở bên Bác, được Bác soi sáng cho con đường đi của dân tộc Việt Nam. Những cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, bình dị mà cao đẹp, đó là tâm trạng của 1 người con trước vị cha già kính yêu của dân tộc.

Phân tích cảm xúc của nhà thơ khi rời lăng Bác qua khổ thơ cuối

Mong mỏi bao nhiêu năm, nay mới có dịp ra thăm lăng Bác, nhà thơ chất chứa biết bao tâm sự và tình cảm mến yêu. Khoảnh khắc viếng thăm ngắn ngủi khiến nhà thơ vô cùng xúc động và luyến tiếc. Khổ thơ thứ tư diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Câu thơ “Mai về miền Nam dâng trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Nhà thơ muốn được trong nhìn hình dung Bác, hồi tưởng lại biết bao kỉ niệm, tỏ bày biết bao tình yêu mến. Đó cũng là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cùng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác. Dẫu biết vậy nhưng nhà thơ phải rời xa lăng Bác để trở về miền Nam, tiếp tục nhiệm vụ cùng nhân dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. người lính năm xưa với tình cảm lớn lao đã ước nguyện được ở lại và gắn kết cuộc đời mình với cuộc đời lớn của dân tộc:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Tác giả “muốn làm con chim hót” để dâng tiếng hát ru giấc Bác ngủ. Đó là âm thanh của thiên nhiên, rất đẹp đẽ và trong lành; “muốn làm đoá hoa” toả hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ, góp hương sắc cùng ngàn vạn đóa hoa khác trong vườn hoa đất nước; “muốn làm cây trẻ trung hiếu” ở bên lăng Bác, trở thành người lính kiên trung mãi mãi canh giấc bác ngủ..

Điệp từ “muốn làm” được lặp lại nhiều lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với Bác Hồ kính yêu, vị cha già vĩ đại của dân tộc, thể hiện tâm trạng lưu luyến, ước muốn, sự tự nguyện chân thành của tác giả.

Hình ảnh cây tre mở ra ở đầu bài thơ rồi khép lại bài thơ một cách khéo léo. Hình ảnh cây tre là biểu tượng của tinh thần chiến đấu anh dũng, bất khuất, sức sống kiên cường, bền bỉ của dân tộc. “Muốn làm cây tre” là khát vọng hóa thân thành một phần thiêng liêng của đất nước. Đồng thời, đó cũng là lời hứa, là quyết tâm tiếp tục làm di nguyện của Bác: xây dựng và bảo vệ đất nước vững bền trong thời đại mới, của tác giả.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác

Khổ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Nếu ở những khổ thơ trước đó, Viễn Phương bày tỏ sự tiếc thương thì ở khổ thơ này, nỗi niềm xúc động đã tuôn trào thành những dòng nước mắt. Ông còn lưu luyến, bịn rịn khi sắp phải rời xa Bác, rời xa vị cha già của dân tộc. Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên lăng Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Nhà thơ muốn được hóa thân làm con chim hót, làm đóa hoa tỏa hương, làm cây tre trung hiếu để được dâng hiến những gì tốt đẹp nhất cho Bác và cho đất nước. Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cây tre khách thể đã hòa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.

Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác chi tiết

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác – Mẫu 1

Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc luôn là niềm tự hào của triệu triệu người dân Việt Nam. Dù đã đi xa, thế nhưng Người vẫn luôn sống mãi trong trái tim nhân dân, trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho văn chương. Cùng viết về Bác, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương nổi bật với xúc cảm và sự trân trọng của người thi sĩ đối với vị cha già. Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác, ta sẽ thấy được ước mong nhỏ bé của tác giả đối với Hồ Chủ tịch.

Nhà thơ Viễn Phương ( 1928 – 2005) tên thật là Phan Thanh Viễn, sinh ra và lớn lên tại An Giang. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Thời chống Mỹ cứu nước, ông không chỉ là một người chiến sĩ mà còn là một cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng khu vực miền Nam. Năm 1952, khi Nam Bộ tổ chức giải thưởng tổng kết văn học nghệ thuật, trường ca “Chiến thắng Hòa Bình” của nhà thơ đã đạt giải nhì. Thời gian sau, Chi hội văn nghệ Nam Bộ được thành lập, Viễn Phương đã được bầu vào Ban chấp hành. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như: “Như mây mùa xuân, “Anh hùng mìn gạt”, “Lòng mẹ”,… Sinh ra và lớn lên tại miền Tây sông nước, thơ Viễn Phương cũng in đậm phong cách và tâm hồn của nơi đây. Các tác phẩm của ông rất giàu cảm xúc nhưng không bi lụy. Thơ ông nền nã, thì thầm, bâng khuâng, như là lời tâm tình, thủ thỉ với bạn đọc. Vì vậy, mỗi tác phẩm của ông đều được độc giả yêu thích và trân trọng.

Bài thơ “Viếng Lăng Bác” được tác giả Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, khi đất nước đã giành thắng lợi vẻ vang trước đế quốc Mỹ.. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, lăng Bác vừa được hoàn thành, ông được vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác. Tác phẩm được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”, xuất bản năm 1978.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” là nỗi xúc động, yêu mến khôn nguôi của Viễn Phương đối với vị cha già dân tộc. Đó là những cảm xúc mãnh liệt khi đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng; trước đoàn người vào lăng viếng Bác; khi vào lăng, nhìn thấy di hài của Bác. Và sau cùng, khổ thơ cuối là những cảm xúc lắng đọng trước lúc ra về. Đây cũng là khổ thơ thể hiện mong ước nhỏ bé, được ở bên Bác, không nỡ rời xa của nhà thơ:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Trước hết, khổ thơ thể hiện niềm thương cảm lớn lao của tác giả khi phải chia xa Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Ngôn ngữ Việt phong phú vô cùng. Từ “thương” có lẽ là từ đặc biệt mà không một ngôn ngữ nào có thể cắt nghĩa, lí giải được. Chỉ một tiếng tiếng “thương” thôi, tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác đã được bày tỏ một cách vô cùng trọn vẹn. Đó là niềm yêu kính, là quý trọng cả cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Hồ Chủ tịch. Người đã dành hết cả đời mình cho dân, cho nước, cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Là sự hi sinh không tiếc mình của người cha già lặng lẽ, nhiều trăn trở:

“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son”

Đó còn là sự xót xa, đau đớn của tác giả nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Giờ đây, chúng ta đã mãi mãi mất đi người cha già kính yêu. Nỗi đau ấy, sau những kìm nén trong suốt cuộc hành trình về với Bác, giờ đây khi phải chia xa đã “trào nước mắt”. Mọi xót thương dồn nén lại, tuôn trào. Và không chỉ con người mới xót thương, có lẽ thiên nhiên đất trời cũng đã động lòng:

“Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”

(Tố Hữu)

Chỉ với một câu thơ 8 chữ, tình cảm của nhà thơ Viễn Phương đã được bộc lộ rất chân thành. Đó là nỗi xót thương vô hạn sau khi bị kìm nén đã tuôn thành dòng lệ trong giây phút chia tay.

Không chỉ bày tỏ cảm xúc một cách đơn thuần, tác giả Viễn Phương còn thể hiện ước nguyện nhỏ bé được ở bên Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Trong giây phút chia xa đầy lưu luyến, cảm xúc nghẹn ngào của nhà thơ đã khiến tác giả như muốn được hóa thân để mãi mãi bên Người. Ở đây, tác giả đã dùng liên tiếp ba lần điệp ngữ “muốn làm”. Cùng với đó, các hình ảnh con chim, đoá hoa, cây tre được lồng ghép và dùng đầy ý đồ. Tất cả đã nói lên ước nguyện tha thiết của nhà thơ. Ông muốn Bác được yên lòng nghỉ ngơi, còn mình thì muốn đền đáp công ơn trời biển của Người. Tác giả không mong ước gì quá lớn lao mà chỉ mong được ở bên Bác mỗi ngày, trở thành con chim, cành tre lặng lẽ, âm thầm. Điều này đã cho thấy sự thấu hiểu của tác giả về Bác.

Tác giả muốn làm “con chim” để hót quanh lăng Bác. Tiếng chim ấy sẽ như lời yêu thương của nhân dân Việt Nam ở bên, bầu bạn với Người. Cánh chim ấy cũng là cánh chim của tự do, hoà bình, là minh chứng cho khát vọng độc lập thuở hàn vi Bác đã hằng mong mỏi. Không ước làm ánh mặt trời, là cái gì lớn lao mà chỉ là cánh chim không mỏi, nhỏ bé nhưng lại mạnh mẽ và kiên cường vô cùng.

Tác giả còn ước được làm “đóa hoa” luôn “tỏa hương đâu đây”. Sinh thời, Bác rất yêu hoa. Và có lẽ hiểu được tâm ý này, nhà thơ Viễn Phương đã ước được hóa thân thành sự vật quen thuộc và ý nghĩa ấy. Không làm cây hoa, cành hoa mà chỉ ước làm một “đóa hoa” giữa rừng hoa tươi đẹp. Đóa hoa ấy còn không hề có tên gọi, màu sắc, hương thơm cụ thể. Chỉ là một đóa hoa vô danh, thế nhưng luôn tỏa hương, làm đẹp cho đời. Tác giả như muốn nhấn mạnh rằng nhân dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc giới tính, nghề nghiệp, đều tươi đẹp và xứng đáng trân trọng.

Ở đây, tác giả đã dùng kết cấu đầu cuối cho bài thơ. Mở đầu là “hàng tre bát ngát”, kết thúc cũng là “cây tre trung hiếu”. Cũng như cánh chim, đóa hoa, tác giả vẫn chỉ ước làm “cây tre trung hiếu chốn này” giữa hàng triệu cây tre khác. Nhân dân Việt Nam sẽ luôn đứng cùng với nhau, đoàn kết, kiên cường trước mọi biến chuyển. Đó cũng chính là mong mỏi của Bác lúc sinh thời. Những nguyện ước nhỏ bé ấy của tác giả Viễn Phương vừa chân thành lại vừa sâu sắc. Đó cũng chính là những cảm xúc và mong muốn của hàng triệu con người miền Nam, của toàn bộ nhân dân Việt Nam trước khi rời lăng Bác sau những lần đến thăm Người.

Với ngôn ngữ giàu cảm xúc cùng những hình ảnh điển hình, khổ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm mạnh mẽ. Đó là niềm tiếc nuối, bâng khuâng cùng những mong mỏi đau đáu của tác giả – cũng chính là nguyện ước của triệu triệu người dân Việt Nam với Bác. Có hàng nghìn bài thơ viết về Bác, thế nhưng Viễn Phương với áng thơ dịu nhẹ của mình vẫn giữ vị trí không thể thay thế, làm đẹp hơn kho tàng văn chương về Bác.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác – Mẫu 2

 Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

Sau bao nhiêu cảm xúc của một người con lần đầu ra thăm người cha của mình thì giờ đây đã đến lúc phải rời xa. Cảm xúc ấy của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện qua khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” với bao ước muốn thành kính.

Bài thơ được sáng tác năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước được thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành. Tác giả ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cuộc hành trình ấy đã đến lúc phải ra về với câu thơ đầy xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Là một câu thơ mà cũng là một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời giã biệt ấy thật nghẹn ngào sâu lắng. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá. Nhưng dù muốn hay không thì giây phút ngắn ngủi được gặp Bác cũng vô cùng thiêng liêng. Đã đến lúc dòng người vào lăng viếng Bác phải ra về.

Trong niềm xúc động nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa được một lần gặp Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.

Khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở mãi ở bên lăng Bác không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời là niềm nguyện ước của Viễn Phương muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác – Mẫu 3

Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương – một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng lệ nơi khóe mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Chỉ một chữ “thương” quen thuộc gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vô cùng.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.

Cả bài thơ là tiếng lòng của người con ra thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được kết tinh trong khổ thơ cuối. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác – Mẫu 4

 Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang là những nét vẽ tài hoa về nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào vì có một vị cha già kính yêu cả cuộc đời đã hiến dâng cho non sông đất nước. Tri ân người rất nhiều văn nghệ sĩ đã có những vần thơ đẹp ca ngợi Bác. Trong đó bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là tấm lòng thầm kính ngưỡng vọng là nén tâm hương mà nhà thơ ngưỡng vọng dâng lên Bác kính yêu. Bài thơ kết thúc với dòng cảm xúc:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác trong dịp tác giả đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ. Bài thơ thể hiện niềm xúc động chân thành, lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc và nỗi niềm thương nhớ Bác Hồ của nhà thơ khi được đến viếng lăng Bác. Đến khổ cuối của bài thơ Viễn Phương đã bộc lộ niềm lưu luyến tiếc thương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam.

Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:

Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa

Trong phút giây xúc động thiêng liêng, đứng trước sự vĩ đại sự hi sinh, lòng tận tụy của Người khiến nhà thơ xúc động tự nguyện muốn dâng hiến cuộc đời mình:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Chân bước đi mà lòng còn ngoảnh lại, lưu luyến không muốn rời, sức mạnh giá trị đạo đức Hồ Chí Minh níu kéo lòng người ở lại. Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi lặp lại đã diễn tả tâm trạng vừa lưu luyến nhưng cũng đầy ước nguyện. Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót góp tiếng hát mang niềm vui đến cho Bác mỗi ngày, làm đóa hoa tỏa hương sâu sắc tô điểm cho cuộc sống đặc biệt làm “cây tre trung hiếu” chốn này, đứng cạnh mãi bên người, canh từng giấc ngủ cho người. Cũng là lời hứa nguyện sống xứng đáng với lời dạy của Người. Viễn Phương đã nói lên niềm mong ước của mình cũng như ước nguyện của tất cả mọi người dân Việt Nam muốn được gần bên Bác và lớn lên một chút:

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn lên ở bên Người một chút.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác – Mẫu 5

Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời vào năm 1976, đây là thời điểm đất nước hòa bình, hai miền thống nhất, nhà thơ có dịp ra thăm lăng Bác. Bài thơ thể hiện niềm kính trọng và tình yêu thương và tiếc nuối của tác giả cũng như đồng bào miền Nam khi ra thăm Bác. Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và thành công nhất là Hoàng Hiệp có cùng nhan đề.

Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và trở về miền Nam để tiếp tục dựng xây, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên cường, máu lửa của tổ quốc.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác nhà thơ đã không thể nào kìm được lòng mình nữa, tuôn trào nước mắt. Những khổ thơ ở trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ vẫn cố kìm giữ trong đến khổ thơ cuối thì cảm xúc của nhà thơ đã tuôn theo dòng nước mắt tuôn rơi. Từ ngữ biểu cảm đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên tới đỉnh điểm.

Từ cái nỗi xúc động đó tác giả thể hiện ước nguyện của mình:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Điệp ngữ “muốn làm” khiến cho nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện được khát vọng mãnh liệt của mình. Khát vọng đó được bộc lộ qua những hình ảnh thơ vừa đẹp vừa gợi cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu” tất cả để làm đẹp cho nơi Bác nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.

Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” càng nhấn mạnh thêm cái ước mơ của tác giả được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là khát khao chung của rất nhiều người, bởi vì:

“Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,
Ta bỗng lớn ở bên người một chút”

Viễn Phương cũng cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”, cây tre này khiến cho chúng ta nhớ lại hình ảnh “hàng tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” đã làm nên kết cấu đầu cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu như mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc sẽ là hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại một lần nữa hình ảnh “cây tre” để nhấn mạnh tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời làm lý tưởng của người và đây cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.

Theo bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về chúng ta nhận ra được dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và càng lúc càng phát triển. Nỗi đau cứ được dâng cao và đến khổ cuối thì dâng lên tới đỉnh điểm, nỗi đau ấy cũng chính là tiếng lòng của tất cả người dân Việt Nam.

Tác giả chưa bao giờ có ước muốn sẽ làm điều gì đó cao cả, kỳ vĩ mà chỉ là “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” mà thôi, đó là những hình ảnh vô cùng nhỏ bé, bình dị nhưng đó là tất cả những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác.

Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường thì đến khổ thơ cuối này hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là hình ảnh nghệ thuật nhân hóa, đó là tấm lòng thành kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra đó là tình cảm của toàn dân tộc kính dâng lên người.

Nếu như ở mấy khổ trên đại từ nhân xưng chủ thể nói tới là tác giả, là “con” thì ở khổ cuối chủ thể đó bị ẩn đi, không phải tác giả không nhắc tới nữa mà lúc này chủ thể là tất cả người con Việt Nam chứ không riêng gì tác giả nữa. Khổ cuối khép lại đó là cảm giác chia tay, xa cách về không gian địa lý, thời gian nhưng nó lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, lòng trung hiếu.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi được vào viếng lăng Bác. Bài thơ có giọng điệu trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm, ngôn ngữ giản dị mà cô đúc. Bài thơ chính là tâm tình, là lời tri ân, sự biết ơn của con dân gửi tới vị cha già kính yêu của dân tộc, cả đời gắn bó, sát cánh, hy sinh cho sự nghiệp của cả dân tộc.

Cảm nhận khổ cuối Viếng lăng Bác

Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay. Lòng nhớ thương,đau xót kìm nén đến giờ vỡ oà thành nước mắt:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Ước nguyện được hoá thân thành con chim, đoá hoa, cây tre để canh giữ, điểm tô cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ. Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng đậm nét thể hiện lòng kính yêu và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác. Điệp ngữ “muốn làm”, cấu trúc câu được lặp lại tạo thành nốt nhạc dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng trào dâng mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Như vậy bước chân ra đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam thì ở lại. Tiếng lòng đó, ước nguyện đó không chỉ là của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người.

“Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất suy tưởng, chất trữ tình đằm thắm với cách dùng nhiều luyến láy ngôn ngữ, phong phú âm điệu khiến bài thơ mau chóng được đông đảo bạn đọc tiếp nhận. Chính vì vậy nó đã sớm được phổ nhạc và trở thành một bài ca sâu lắng, giàu sức truyền cảm và quen thuộc với mỗi người Việt Nam.

Cảm nhận ý nghĩa khổ 4 bài thơ Viếng lăng Bác

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam thăm Bác thì trong khổ 4 bài thơ Viếng lăng Bác bộc lộ tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài. Ý thơ thể hiện nỗi niềm thiết tha và ước nguyện của nhà thơ muốn được mãi ở bên Bác. Đây là ước nguyện chân thành, lời hứa thuỷ chung của nhà thơ với Bác. Đó cũng là lời nói hộ ý nguyện của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta quyết tâm đi theo lí tưởng cao đẹp và con đường cách mạng Bác đã vạch ra:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này… ”

Khổ cuối khép lại những nỗi đau, mất mát mà cả dân tộc đã trải qua khi nghe tin Bác qua đời (1969). Chỉ còn lại những giọt nước mắt của người con viếng muộn: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc thật chân thành, mãnh liệt.

Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng, thiết tha. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Nhà thơ ước muốn được là chim, là hoa, là cây nhưng tất cả là ở bên lăng, ở quanh lăng. Con chim dâng tiếng hót, đóa hoa dâng mùi hương, cây tre trung hiếu canh gác giấc ngủ êm đềm. Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”, ”đóa hoa”, ”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Ước muốn đó thể hiện tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhà thơ, một người con Nam Bộ, nhưng đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam đối với Bác.

Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.

“Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.

Khổ 4 bài thơ ‘Viếng lăng Bác’ diễn tả nỗi niềm riêng nhưng mang tình cảm khái quát chung. Tác giả đã viết một loạt câu thơ không chủ ngữ, nhấn mạnh ba lần điệp ngữ muốn làm như một khát vọng khôn nguôi. Khát vọng của những người đã một lần được về thăm lăng, những người chưa một lần được đến thăm lăng mà tấm lòng luôn hướng về Bác kính yêu.

Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác tuyển chọn 13 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc, thấy rõ những cảm xúc nghẹn ngào, xót thương vô hạn của nhà thơ khi rời lăng Bác.

Sending
User Review
0 (0 votes)

RELATED ARTICLES