Kể lại một câu chuyện bằng cách kể của chính mình là cách để các em học sinh phát huy trí sáng tạo, cách dùng ngôn từ linh hoạt mang tính cá nhân. Những bài văn mẫu Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em sẽ là những gợi ý về cách kể chuyện này, 9MOBI đã tổng hợp những bài văn hay nhất để các em tham khảo.
Những câu chuyện cổ tích đóng vai trò quan trọng trong kho tàng văn học dân gian, nó giúp con người sống hướng thiện hơn và bồi dưỡng những phẩm chất cao quý. Em Bé Thông Minh là câu chuyện hay dành cho các em nhỏ, sau khi học xong, các em có thể tự kể lại theo cách riêng của mình.
Tổng hợp những bài văn mẫu Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em
I. Dàn Ý Kể Lại Truyện Em Bé Thông Minh Bằng Lời Văn Của Em
1. Mở Bài
Giới thiệu câu chuyện
2. Thân Bài
– Diễn biến câu chuyện:
+ Nhà vua cho người đi khắp nơi để tìm người tài giúp nước
+ Đến làng nọ gặp được cậu bé thông minh
+ Cuộc đối đáp của viên quan và cậu bé
+ Viên quan đã khẳng định tìm được người tài
+ Về tâu với nhà vua
+ Nhà vua thử cậu bé bằng cách cho làng ba con trâu đực và làm sao để ba con trâu ấy đẻ được chín con nghé.
+ Hai cha con lên đường vào kinh để gặp nhà vua, cuộc đối đáp giữa hai người đã giúp cậu bé vượt qua hết thử thách của nhà vua.
+ Cậu bé giúp nhà vua và triều đình câu đố khó của sứ giả nước bên
3. Kết Bài
Nhà vua khâm phục tài năng của cậu bé phong cậu là trạng nguyên
II. Bài Văn Mẫu Kể Lại Truyện Em Bé Thông Minh Bằng Lời Văn Của Em
Bài số 1
Ngày xưa, một vị vua anh minh muốn có được những người tài giỏi giúp mình cai trị đất nước. Ngài sai viên quan cận thần đi dò la khắp nơi. Viên quan ấy đã mất nhiều công tìm kiếm nhưng chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, ông ta đi qua cánh đồng làng nọ, thấy hai cha con nông phu đang làm ruộng. Người cha đánh trâu cày, đứa con đập đất. Tuy trong bụng đã có phần chán nản, song viên quan tự nhủ: “Hay là mình cứ thử lần cuối xem sao!”.
Ông ta xuống ngựa rồi cao giọng hỏi:
– Này lão kia! Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?
Bị bất ngờ, người cha ngạc nhiên đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con trai khoảng bảy, tám tuổi, tóc để trái đào, cởi trần đóng khố, đã nhanh nhảu hỏi vặn lại quan rằng:
– Thế xin hỏi ông câu này đã: Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường.
Nghe cậu bé hỏi lại như thế, viên quan ngạc nhiên sửng sốt, chẳng biết đáp sao cho ổn. Viên quan nghĩ thầm: “Nhất định nhân tài là đây, khỏi phải mất công tìm đâu nữa”. Ông ta bèn hỏi tên họ, làng xã của hai cha con rồi vội vã phi ngựa về tâu vua.
Nghe viên quan kể, nhà vua mừng lắm nhưng chưa tin ngay. Để biết đích xác hơn, vua làm phép thử. Ngài sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn một năm sau nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Nhận được quà và lệnh vua ban, cả làng bối rối và lo lắng, không hiểu thế nào. Các cụ bô lão trong làng mở đến mấy cuộc họp ngoài đình, bàn đi tính lại vẫn chẳng tìm ra cách giải quyết. Việc ấy đến tai chú bé, chú liền nói với cha rằng:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp thành xôi để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, cha con ta sẽ xin làng làm phí tổn để trẩy kinh, lo liệu việc đó.
Nghe con nói, người cha sợ hãi khuyên can:
– Đã giết trâu ăn thịt thì còn lo liệu thế nào? Đừng có dại dột mà bay mất đầu đấy con ạ!
Nhưng chú bé vẫn khăng khăng một mực:
– Cha cứ mặc con, thế nào con cũng lo xong xuôi mọi việc!
Khoác vội chiếc áo, người cha lật đật ra đình trình bày câu chuyện với các cụ trong làng. Mọi người ngờ vực, bắt hai cha con phải làm giấy cam đoan rồi mới dám ngả trâu đánh chén.
Mấy ngày sau, hai cha con khăn gói vào kinh. Đến hoàng cung, chú bé bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì rình lúc lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng, khóc ầm lên.
Lấy làm lạ, vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
– Thằng bé kia, mày vào đây có việc gì? Tại sao lại khóc?
Chú bé dụi mắt, vờ vĩnh đáp:
– Tâu đức vua! Mẹ con không may chết sớm, mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe chú bé nói, nhà vua và cả triều đình đều bật cười. Vua phán:
– Này thằng bé kia! Mày muốn có em bé thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực thì làm sao đẻ được?
Chỉ chờ có thế, cậu bé bỗng tươi tỉnh hẳn:
– Thế sao lệnh trên lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực, sau một năm phải đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ?
Nhà vua mỉm cười, xoa đầu chú bé:
– Ta thử đấy mà! Thế dân làng mày không biết đem trâu ra thịt mà ăn với nhau à?
Chú bé nhanh nhảu đáp:
– Tâu đức vua! Làng con sau khi nhận được ba thúng nếp và ba con trâu, biết là đức vua thương ban lộc cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau cả rồi ạ!
Vua và các quan nhìn nhau, chịu là chú bé thông minh. Tuy nhiên, vua muốn thử một lần nữa.
Hôm sau, hai cha con chú bé đang ăn cơm ở ngoài công quán thì sứ giả của nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải nấu thành ba mâm cỗ. Chú bé bảo cha cho mượn cây kim may nhỏ xíu rồi nói với sứ giả:
– Ông cầm cái kim này về tâu với đức vua cho người rèn thành một con dao thật sắc để tôi xẻ thịt chim.
Nghe sứ giả kể lại, nhà vua phục lắm. Lập tức, vua cho gọi hai cha con chú bé vào cung và ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, nước láng giềng cậy lớn lăm le muốn cướp nước ta. Để dò xem nước ta có người tài hay không, sứ giả nước ấy mang sang một chiếc vỏ ốc vặn rất dài và rỗng hai đầu, đố làm sao xâu được sợi chỉ qua đường ruột ốc.
Nhà vua lập tức triệu các đại thần vào cung để hỏi ý kiến. Mỗi người bàn một cách. Các ông trạng, các nhà thông thái nghĩ nát óc nhưng cũng đành bó tay. Mà không giải được câu đố hiểm hóc ấy thì mất thể diện quốc gia. Cuối cùng, nhà vua đành mời sứ thần ra nghỉ ở công quán để có thời gian đi hỏi chú bé.
Từ hôm lãnh thưởng ở kinh đô về, chú bé vẫn hồn nhiên vui đùa, chạy nhảy, đùa nghịch cùng bạn bè trong làng. Khi nghe viên quan mang dụ chỉ của nhà vua đến và trình bày câu chuyện, chú bé liền hát rằng:
Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang …
Rồi chú nói với viên quan nọ:
– Cứ làm theo cách ấy là xâu qua được ngay!
Viên quan mừng lắm, vội về tâu vua. Nhà vua và cả triều đình hân hoan, sung sướng khi thấy con kiến đã kéo được sợi chỉ qua đường xoắn ốc trước con mắt ngạc nhiên, thán phục của sứ thần nước láng giềng.
Sau đó, nhà vua phong tặng chú bé chức Trạng Nguyên, lại truyền xây cho chú một dinh thự nguy nga trong cung để khi có việc cần, vua gặp gỡ hỏi ý kiến chú cho tiện. Với trí thông minh lạ thường, chú bé đã giúp nhà vua rất nhiều việc có ích cho đất nước.
Bài số 2
Con người thông minh thì làm việc gì cũng dễ dàng vì họ nghĩ ra các phương pháp tốt và hiệu quả nhất để giải quyết những đề đó. Người thông minh nếu có nhân cách và đạo đức tốt thì sẽ trở thành những nhân tố giúp đất nước phát triển. Dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu chuyện nói về người thông minh nhưng câu chuyện mà tôi ấn tượng nhất là câu chuyện “Em bé thông minh” sau đây tôi xin kể lại câu chuyện.
Ngày ấy, đất nước ta đang đứng trước nguy cơ bị xâm lược, ở bên ngoài kia bọn giặc nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Nhà vua lo lắng cho đất nước cho muôn dân thiên hạ nên đã cử một viên quan đi khắp đất nước để tìm người tài. Viên quan ấy đã đi khắp nơi, đến nhiều chỗ, gặp qua rất nhiều người và ra những câu hỏi hóc búa nhưng ông vẫn không tìm được người nào cả.
Một hôm ông đi qua một cánh đồng thấy hai cha con nọ đang đi cày ruộng ông đứng lại hỏi “Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?” đây là một câu hỏi khó bởi nào có ai đếm lại xem mình đã cày bao nhiêu đường, người cha loay hoay không biết trả lời làm sao thì đứa con đã của người nông dân kia đã hỏi ngược lại: Con sẽ trả lời câu hỏi của ngài nếu ngài cho con biết chính xác một ngày đường ngựa của quan đi được bao nhiêu bước? Viên quan nghe cậu bé hỏi vậy thì sửng sốt ông ngạc nhiên với tài năng của cậu bé ông nghĩ đây nhất định là thiên tài rồi và ông liền hỏi lại tên địa chỉ quê quán rồi về tâu lại với nhà vua.
Về đến cung ông đã kể lại chuyện này cho nhà vua nghe và ông khẳng định với nhà vua đây chính là nhân tài của đất nước. Nghe thấy viên quan khẳng định chắc nịch như thế vua mừng lắm, nhưng ông vẫn muốn thử tài năng của cậu bé nữa để xác minh lại. Vua liền hạ chỉ ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực và yêu cầu dân làng phải dùng số gạo ấy để nuôi trâu, một năm sau ba con trâu ấy phải đẻ thành chín con. Nếu không nộp đủ thì làng phải chịu tội”. Thấy thế dân làng ai nấy đều lo lắng lắm vì trâu đực là sao mà đẻ được con, dân làng đã họp bàn rất nhiều lần nhưng vẫn không tìm được giải pháp. Cậu bé nghe được chuyện này liền thưa với cha: Cha ơi, đây chẳng phải lộc vua ban ư? cha hãy nói với dân làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người cùng ăn. Còn lại một trâu và thúng gạo cha xin làng bán để lấy lộ phí cho hai cha con ta vào cung. Nghe lời con nói người cha ra đình làng nói với làng cả làng sửng sốt nhưng không tìm được giải pháp nào nên đánh chấp nhận.
Ngày hôm sau, hai cha con bắt đầu lên đường để vào kinh, khi đã đến cổng vua, cậu bé bảo cha đứng ngoài đợi còn mình thì lẻn vào sân vua để khóc. Nghe thấy tiếng trẻ con khóc nhà vua liền sai lính ra đưa cậu bé vào hỏi “Thằng bé kia, có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc ầm ĩ, làm kinh động đến ta?” Nghe thấy vua hỏi cậu bé liền nói: “Thưa đức vua, sự tình là như vậy, mẹ con mất từ sớm mà cha thì mãi không chịu đẻ thêm em bé để cùng chơi đùa với con. Dám mong nhà vua hạ lệnh để cha con đẻ em cho con chơi”. Vua nghe xong liền bật cười và nói: ” Ngươi muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha chứ cha ngươi là đàn ông thì sao mà đẻ được” cậu bé nghe thấy thế liền đáp lại “Thế sao làng của con lại bị lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”
Trước cách ứng xử nhạy bén của cậu bé cả vua và chiều thần đều trầm trồ khen ngợi. Nhà vua chưa dừng ở đó ông vẫn muốn thử cậu bé thêm lần nữa. Hôm sau khi hai cha con đang ngồi ăn cơm thì sứ giả đến ông ta mang theo một con chim sẻ và bảo cậu làm ra ba mâm cỗ đầy. Em bé ngồi nghĩ một lúc và cậu đưa cho sứ giả một cây kim và bảo mang cây kim này đi rèn thành một con dao để sẻ chim.
Sứ giả về tâu với nhà vua và vua rất vui mừng vì đã tìm ra nhân tài liền ban thưởng cho hai cha con họ.
Nước láng giềng đang lăm le xâm lược nước ta nhưng chúng vẫn chưa hành động vì sợ nước ta có nhân tài nên chúng đã gửi sứ giả sang để thám thính. Sứ thần mang lên một vỏ ốc dài và một sợi dây đố dùng sợi dây xuyên qua ruột ốc. Câu hỏi của nước bạn của thật rất khó, các bá quan trong triều thử hết mọi cách nhưng không làm được. Không tìm được cách nhà vua liền sai sứ giả trở về quê cậu bé xem tìm được cách nào không đến nơi sứ giả trình bày câu chuyện cho cậu bé nghe và cậu bé bật cười và hát :
Tang tình tang, tình tính tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang
Tang, tình tang…
Và em bé bảo cứ làm theo cách đấy là được. Viên sứ giả vội về tâu với nhà vua cả triều đình vui sướng sứ giả nước láng giềng thán phục. Nhà vua đã phong cho em bé là trạng nguyên đưa vào cung để tiện hỏi han.
Nước ta từ xưa đến nay có rất nhiều người tài giỏi họ thông minh bẩm sinh nhưng cũng nhờ chăm chỉ học hỏi. Là thế hệ trẻ của tổ quốc chúng ta cần chăm chỉ học tập rèn luyện cố gắng trở thành người có ích cho đất nước.
Bài số 3
Ngày xưa, có một vị vua muốn tìm người tài giỏi ra giúp nước. Vua phái một viên quan đi khắp nơi tìm kiếm người hiền tài. Viên quan này đi mãi, đi rất nhiều nơi mà vẫn không gặp được người nào thật tài giỏi.
Đến đâu quan cũng ra những câu hỏi oái oăm, hóc búa nhằm thử tài mọi người nhưng không ai trả lời được các câu hỏi do quan đưa ra.
Một hôm, chợt thấy hai cha con nhà nọ đang làm ruộng, cha cày, con đập đất. Quan dừng ngựa lại hỏi:
* Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha đứng ngẩn ra, còn đứa con khoảng 7 tuổi, thì nhanh miệng vặn lại:
Xin hỏi ông, nếu ông nói đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, thì tôi sẽ nói cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như thế thì há hốc miệng ra, không biết đáp lại sao cho ổn. Quan mừng thầm, và đinh ninh rằng nhân tài đây rồi, chẳng còn cần tìm đâu mất công. Quan bèn hỏi tên họ, quê quán cậu bé, rồi về tâu với đức vua. Nghe chuyện, vua lấy làm mừng. Nhưng nhà vua còn muốn thử lại.
Vua sai ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp, ba con trâu đực, lệnh cho, phải nuôi để năm sau đẻ thành chín con trâu, cả làng lo lắng. Bao nhiêu phiên họp làng tìm phương cách giải quyết. Nhưng rốt cuộc, cả làng từ trên xuống dưới đều chịu, và coi đây là một tai họa. Việc đến tai em bé, con nhà thợ cày, em bé liền nói với cha: Cha cứ thưa với làng để lại một thúng gạo, một con trâu để cha con ta làm phí tổn đi đường lên kinh. Còn thì làng cứ đồ xôi, ngả trâu làm cỗ ăn.
Mọi việc con sẽ lo liệu. Người cha ra đình trình bày với làng. Mọi người nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan, rồi mới dám mổ trâu đánh chén.
Sau đó, cậu bé cùng cha khăn gói vào kinh. Đến hoàng cung, cậu bé bảo cha cứ đứng đợi ở ngoài, còn mình thì thừa lúc lính canh vô ý liền lẻn vào sân rồng khóc ầm lên. Nhà vua sai lính điệu em bé vào phán hỏi:
Thằng bé kia, có việc gì?
Sao lại đến đây mà khóc?
Em bé vờ vĩnh đáp:
Tâu đức vua, mẹ con chết sớm, còn cha thì không chịu sinh em bé để con có bạn nên con khóc.
Nghe nói vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:
Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực thì làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh.
Thế sao làng chúng con có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua?
Giống đực thì làm sao mà đẻ được!
Vua cười:
Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
Cậu bé liền đáp:
Làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua ban cho, nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và triều thần đều chịu thằng bé là thông minh. Tuy vậy, vua còn muốn thử một lần nữa.
Khi hai cha con cậu bé đang ăn cơm ở công quán, vua sai đem đến cho hai cha con một con chim sẻ, bắt làm ba mâm cỗ. Cậu bé nhờ cha kiếm cho mình một cái kim khâu, rồi đưa cho quan truyền lệnh và bảo:
Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi một con dao để tôi xẻ thịt chim. Vua nghe nói, từ đấy mới phục hẳn.
Bấy giờ có một nước láng giềng lăm le chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xét xem nước ta có nhân tài không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất dài. rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua ruột con ốc.
Sau khi nghe sứ thần đưa ra câu đố, các đại thần đưa mắt nhìn nhau, vò đầu suy nghĩ. Có khách hàng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để luồn cho dễ. Nhưng rốt cuộc đều vô hiệu. Các ông trạng, các nhà thông thái được triệu vào cung cũng đều bó tay. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra công quán nghỉ để đi hỏi cậu bé.
Khi viên quan mang chỉ dụ của nhà vua đến thì cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà.
Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên:
Tang tình tang Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mõ, kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang tính tình tang.
Rồi bảo:
Cứ theo cách đó là xâu được ngay.
Viên quan sung sướng về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói như mở cờ trong bụng. Quả nhiên, con kiến càng xâu được sợi chỉ qua đường ruột ốc, khiến sứ giả nước láng giềng phải kinh sợ.
Vua bèn phong cho em bé làm Trạng Nguyên, lại còn sai người xây một dinh thự cho em bé ở ngay cạnh hoàng cung để tiện hỏi han công việc.
Bài số 4
Một hôm, cha tôi đang đánh trâu cày còn tôi đang đập đất thì có một viên quan dừng ngựa gần chỗ chúng tôi.
Viên quan hỏi cha tôi: “Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”
Khi đó, tôi khoảng bảy, tám tuổi nhưng nghe ông quan hỏi cha tôi thế nên tôi đã hỏi vặn lại quan rằng: “Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường”
Tôi thấy ông quan há hốc mồm sửng sốt không biết trả lời tôi ra sao. Ông quan hỏi tôi về tên họ, làng xã quê quán của cha con tôi rồi phi ngựa đi thẳng.
Một hôm, nhà vua ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, tôi xin cha tôi thưa với dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho cha con tôi trẩy kinh lo liệu việc của làng.
Làng ngờ vực bắt tôi viết giấy cam đoan mới đám ngả trâu đánh chén. Sau đó mấy hôm, cha con tôi lên đường. Đến hoàng cung, tôi bảo cha tôi đứng đợi ở ngoài, còn tôi thì nhè lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu tôi vào, phán hỏi: “Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?”.
Lúc đó, tôi vờ vĩnh đáp: “Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ”.
Nghe tôi nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán: “Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!”
Lúc đó, với vẻ mặt tươi tĩnh, tôi thưa với vua: “Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”
Lúc đó, vua cười và bảo: “Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?”
Tôi thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe tôi nói vậy, nhà vua chỉ cười.
Một hôm, khi hai cha con tôi đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ giả nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh cho tôi phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Tôi nhờ cha tôi lấy một cây kim và tôi đưa cho sứ giả cái kim đó rồi nói: “Ông cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim”. Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con tôi vào và ban thưởng cho rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta có nhân tài hay không, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Các đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi khách hàng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời gian tìm người giải câu đố.
Một hôm, tôi đang đùa nghịch ở sau nhà thì có chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói đầu đuôi câu chuyện, tôi hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…”
Viên quan sung sướng trở về triều đình và làm như lời tôi nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách dễ dàng. Nghe nói, sứ giả nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho tôi làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.
Bài số 5
Tôi và cha sống cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, tôi đang phụ cha cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:
– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Cha tôi chưa biết trả lời thế nào, tôi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe tôi hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Sau đó ông ta hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con tôi rồi phi ngựa một mạch đi.
Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Nhận lệnh vua, cả làng đều tưng tửng và lo lắng không hiểu thế là thế nào. Tôi nghe rõ ngọn ngành đầu đuôi câu chuyện, cha cả ngày đều liên tục thở dài, thấy vậy tôi bèn bảo cha:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
Cha tôi sửng sốt nhưng tôi quả quyết:
– Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Ngày hôm sau, cha tôi vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con tôi phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con tôi khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, tôi bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu tôi vào, phán hỏi nguyên do
– Tâu đức vua tôi đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
– Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, tôi tươi tỉnh đáp:
– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần gật gù rồi sai người đưa hai cha con tôi đi sắp xếp chỗ ăn ở. Qua hôm sau, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, tôi liền bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
– Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con tôi vào, ban thưởng rất hậu.
Một hôm, triều đình bỗng mời sứ thần ra ở công quán nơi tôi và cha ăn ở. Và khi nghe nói xâu chỉ vào vỏ ốc, tôi bèn chỉ cho cách dung con kiến càng để phá giải câu đố. Quả nhiên cách ấy hiệu nghiệm trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng. Rồi sau đó, vua phong cho tôi làm Trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho tôi ở, để tiện hỏi han.
Ca dao tục ngữ cũng được rất nhiều người yêu thích, bài ca dao Thân em như tấm lụa đào đã phản ảnh thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa, tham khảo bài văn mẫu phân tích bài ca dao này.
Kể lại một câu chuyện bằng cách kể của chính mình là cách để các em học sinh phát huy trí sáng tạo, cách dùng ngôn từ linh hoạt mang tính cá nhân. Những bài văn mẫu Kể lại truyện Em Bé Thông Minh bằng lời văn của em sẽ là những gợi ý về cách kể chuyện này, 9MOBI đã tổng hợp những bài văn hay nhất để các em tham khảo.